THƯ NGỎ

WELCOME TO TV6269

Các bạn thân mến,

Năm 1962 chúng mình bước vào Trưng Vương bằng những bước chân ngập ngừng của những cô bé lớp Đệ Thất ngây thơ. Rồi 7 năm học trôi qua những kỷ niệm với bạn bè, với Thầy Cô, với lớp học, với ngôi trường yêu dấu đã để lại trong ký ức của chúng mình tình bạn thân thiết và những kỷ niệm êm đềm, mơ mộng của một thời áo trắng TV.

Ngày nay tuy ở khắp mọi nơi, chúng mình đã tìm gặp lại nhau. Xin chào mừng tất cả các bạn và ước mong qua trang Blog Trưng vương 62-69 này sẽ là nơi gặp gỡ thân ái để TV6269 cùng ra chơi, vui đùa như ngày xưa trong sân trường yêu dấu.

TV6269







Saturday, September 29, 2012

EM TÔI: LÊ TRẠCH LỰU và MỐI TÌNH THEO MÃI MỘT ĐỜI

Em tôi: Lê Trạch Lựu và mối tình theo mãi một đời
"Em tôi" ra đời đầu năm 1953 đến nay vẫn tiếp tục đem đến cho người nghe những xúc cảm như gần, như xa của một thời tưởng như đã thuộc về dĩ vãng nhưng vẫn tiếp tục làm rung động trái tim những thính giả trẻ tuổi ở thế hệ bây giờ. Đằng sau ca khúc lãng mạn này là một cuộc tình mang theo từ thuở vừa biết yêu cho đến tuổi xế chiều khi nhạc sỹ sáng tác "gặp" lại người xưa qua đường dây điện thoại viễn liên. Hôm nay nhạc sỹ Lê Trạch Lựu nói về câu chuyện tình đã đưa chúng ta đến với "Em Tôi" .

Nhạc sỹ Lê Trạch Lựu
Lê Trạch Lựu rời Việt nam thời loạn ly năm 1951, bỏ lại sau lưng một mối tình, không hiểu người yêu của mình ở phương nao khi mà khói lửa, chiến tranh, tản cư, ly tán đã đẩy mọi người vào tình huống chẳng biết những người thân của mình còn sống hay đã chết. Ở Pháp, theo học nốt bậc trung học rồi vào ngành điện ảnh và làm truyền thông, ông vẫn nhớ hình bóng cũ, cô thiếu nữ tên Phượng mà ông đã gặp lần đầu trong một chuyến đi cắm trại của đoàn hướng đạo ở Sầm Sơn. Chiều nào, qua khung cửa sổ, ông cũng nhìn thấy cô gái ngồi giặt áo bên bờ giếng, người cao, trắng trẻo, đôi mắt thật đẹp đến nỗi chàng thanh niên mới lớn thấy ngây ngất như lên cơn sốt rồi mới chợt nhận ra: "chao ơi tình yêu là thế hay sao?" .
Trở về Hà Nội, ông may mắn tìm biết được địa chỉ của người mà ông say đắm. Liên tiếp trong 3 tháng trời ông viết cho cô Phượng gần 70 lá thư mà không được trả lời. Cậu em trai của cô Phượng, chú Mỹ đóng vai chim xanh đưa thư cho ông. Cho đến một ngày ông được người trong mộng hồi âm, rằng cô rất yêu ông nhưng muốn thử lòng xem ông có phải là người nghiêm túc hay không, và lúc đó là 1 tuần lễ trước ngày toàn quốc kháng chiến. Sau đó thì gia đình cô Phượng tản cư về Hà Đông. Từ Hà Nội ông tìm đến thăm cô Phượng. Thân mẫu của hai người cũng là chỗ quen biết và hai người đã cùng nhau đi chơi suốt buổi chiều bên ven sông, dưới sự... giám sát của cậu em cô Phượng! Hạnh phúc, đến nỗi hai người nói chuyện gì ông không thể nhớ, chỉ nhớ rằng hạnh phúc như chưa bao giờ được hạnh phúc như vậy, duy có một điều ân hận, là ông chưa hề nắm lấy bàn tay của người yêu, dù chỉ một lần. 
Rồi chiến tranh, gia đình Phượng tản cư, mất liên lạc, ông sang Pháp. Tháng ngày qua, ở Pháp, cũng là thời gian mà nỗi nhớ quay quắt đã là nguồn suối trào dâng để một ngày, bên những bạn bè như Nguyên Sa, Hoàng Anh Tuấn, ông bấm lên phím đàn, đưa "Em Tôi" vào đời. Ông cho biết: "Mối tình đối với cô theo tôi suốt đời, vì rằng đó là mối tình đầu, mà mình không biết nhau ở đâu, không biết người ta sống hay chết, tôi nhớ đến cô và tôi đã làm bài 'Em Tôi'." Bẵng đi một thời gian dài, một hôm tình cờ tìm lại được địa chỉ ở Hà Nội của Phượng, ông viết thư về cho cậu em thử hỏi thăm, thì được hồi âm rằng chị của cậu chờ đợi mãi, bao nhiêu đám hỏi mà không nhận lời, sau này ngỡ ông đã chết cô lập bàn thờ, để tang ông 2 năm, nhưng sau vì gia đình thúc giục và đã 26 tuổi, phải có con, cô đành đi lấy chồng. Từ đó ông im lặng, cắt đứt để cho người cũ yên ấm bên chồng con. Về phần cô Phượng, người chồng cô cũng chấp nhận là cô có một mối tình trước, hết sức cảm thông. Nhưng đôi khi thấy vợ buồn, ông khuyên vợ để ông cất những lá thư và hình cảnh cũ, đến bao giờ vui hãy mở ra xem. Thế rồi ông mất, những lá thư xưa không tìm lại được nữa.  Mãi đến cuối năm 2009, 60 năm sau, ông liên lạc được một người bạn cũ từ bao năm ở lại Hà Nội, và chính người bạn này đã giúp nhạc sỹ họ Lê tìm ra số điện thoại của người xưa. Qua đường dây điện thoại ông đã gọi về thăm hỏi bà. Bà không thể tin là ông còn sống, nhắc đi nhắc lại 3 lần như ngỡ trong mơ "anh Lê Trạch Lựu đấy ư?". Ông tâm sự tiếp:"Bây giờ chúng tôi nói chuyện với nhau. Tình ngày xưa xa lắc xa lơ. Cô đã đi lấy chồng, mà tôi đã lấy vợ, bây giờ chỉ coi nhau như bạn già thôi. Quí nhau, kính trọng nhau, chứ không nghĩ đến tình yêu ngày xưa nữa. Không thể nào lập lại thời đó được. Nhưng hai người vẫn rất quí nhau, tôi vẫn thường gọi cho cô, hay cô có gọi tôi, nhưng mà ăn nói như hai người bạn thân thôi." 
 Từ ngày rời Hà Nội năm 1951, nhạc sỹ họ Lê chưa một lần trở lại quê hương. Ông lập gia đình với một người vợ Pháp, gốc Ba Lan, mà theo lời ông thì bà là người rất đẹp, đoan trang, miệng cười tươi như hoa, và ông nhận là số ông may mắn, từ người yêu đến người vợ ai cũng đoan chính. Thời còn trẻ cũng có người bạn rủ ông về miền nam làm việc, và hãng thông tấn Pháp cũng muốn ông về để lập một cột trụ ở bên đó, nhưng nhạc sỹ họ Lê tâm sự:"Tôi nghĩ rằng hồi đó tôi có đứa con nhỏ nhất mới 3 tuổi, nếu tôi về Việt Nam tôi sẽ mê một cô Việt nam, tôi sẽ lấy cô Việt Nam, sống với cô Việt Nam thì tôi sẽ không trở lại Pháp nữa. Tôi tự nghĩ: mình sinh ra con, mình không nuôi con, mình bỏ nó, sung sướng với cuộc sống của mình, rồi sau này con mình nó nhìn mình bằng cách gì mình không thể sống được. Vì thế tôi không đi. Mà nếu tôi đi, thì cũng không thể trở về được, nghề của tôi là ra chiến trường quay phim. Tôi vui thích với nghề đó lắm, mà có thể chết được, nên về thì không thể nào trở lại được nữa." 
 Trong buổi nói chuyện với nhạc sỹ Lê Trạch Lựu, năm nay đã trong lứa tuổi bát tuần, ông có cho biết về những sáng tác khác của ông, những ca khúc đã bị cái bóng của "Em Tôi" che mờ:  "Nhạc của tôi người ta không biết nhiều, người ta chỉ biết đến 'Em Tôi' thôi. Ở Hà Nội, ông Thẩm Oánh có ra một bài của tôi là bài 'Thôn Chiều', ông ấy quí bài đó lắm. Sang Pháp, nhớ quê hương, tôi làm bài 'Nhớ' được trình bày trên đài phát thanh Hà Nội, và Sài Gòn sau này. Bài thứ ba là bài 'Em tôi'. Bài 'Em Tôi' được người ta quí trọng nó quá nên thên hạ quên mất 'Nhớ' và 'Thôn Chiều'."  Khoảng 20 năm sau khi "Em Tôi" ra đời, vẫn nỗi nhớ người xưa, nhạc sỹ họ Lê đã sáng tác "Cành Mai Tóc Ngắn". Cũng trong buổi nói chuyện, nhạc sỹ Lê Trạch Lựu có lời nhắc những ai yêu mến ông xin để ý cho 3 chỗ trong lời nhạc của bài "Em Tôi" mỗi khi hát:  1. Cho anh gót thắm đem dệt nhớ nhung lời thơ (không phải "rót thắm" hay "góp thắm"); Ông giải thích: người đàn bà xưa ăn mặc kín đáo, quần chùng áo dài, gót sen của nàng là nguồn xúc cảm, gợi trí tưởng tượng, chứ không lộ liễu như bây giờ. 2. Đèn trăng phô sắc huy hoàng sáng hơn màu nắng (không phải là "đàn trăng"). 3. Này trăng, này sao chia nhé em (không phải là "này trăng, này sao kia nhé em"). Quí vị có thể vào cothommagazine.com để nghe 1 số nhạc phẩm khác của nhạc sỹ Lê Trạch Lựu.

Friday, September 28, 2012

Thiếu nữ bên hoa huệ - họa sĩ Tô Ngọc Vân

Thiếu nữ bên hoa huệ - hoạ sĩNgọc Vân

 Phân tích giá trị nghệ thuật của tác phẩm mỹ thuật tiêu biểu
           1 Thiếu nữ bên hoa huệ ( sơn dầu-1943)

               
         “Thiếu nữ bên hoa huệ” là một bức tranh miêu tả dáng một thiếu nữ Hà thành nghiêng nghiêng thật tự nhiên, uyển chuyển, tay vờn nhẹ cành huệ trắng tinh khiết. Những hòa sắc và đường nét, hình khối giản dị của bức tranh toát lên một nét buồn vương vấn, nhẹ nhàng, không duyên cớ. Khi mà mọi người biết đến bức tranh, “Thiếu nữ bên hoa huệ” (1943), một kiệt tác của danh hoạNgọc Vân, giá trị thẩm mỹ đã như một liều thuốc hữu hiệu gỡ bỏ một số định kiến xã hội lúc đương thời.Trong những năm 1920 xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến sâu sắc ở thành thị cuộc sống tư sản hoá đã thắng lợi và ổn định, đời sống về mặt tinh thần củng được đòi hỏi với nhu cầu tiếp cận với nền văn minh phương tây đặc biệt là Pháp đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của cư dân này điều đó ảnh hưởng nhiều đến những giá trị truyền thống của người Việt Nam. Trong môi trường ấy, các tầng lớp và giai cấp ở thành thị-tư sản và công nhân, tiểu thương, tiểu chủ, công chức, dân nghèo thành thị, tri thức tân học và nhà nho cho tới các cô sen, cậu bồi- tuy rất khác nhau về mức sống  thậm chí đối lập nhau về thái độ đối với chế độ đương thời, vẫn gần nhau về những nét tâm lí và thị hiếu: thích đua đòi, ăn chơi hưởng lạc, muốn sống và giải trí trong môi trường náo nhiệt, khao khác cái lạ, cái đang đổi thay. Tầng lớp trên của xã hội này có lối sinh hoạt theo văn minh phương Tây với những phương tiện mới và hiện đại: Họ đi ô, ở nhà lầu, dùng quạt điện, mặc áo vét đi giầy bít, đi nghe hòa nhạc và xem phim... Thời trang cũng được thay đổi theo từng năm. Cũng với những thay đổi sinh hoạt là các thay đổi về ý nghĩ và cảm xúc. Nhiều giá trị bền vững của truyền thống bị giới trẻ coi thường, thậm trí còn mang ra chỉ trích. Chính hiện tượng đó ngày càng lớn khiến một số nhà tri thức củ lo lắng “ thế đạo nhân tâm” bị suy sụp do phát triển xã hội không gắn liền với yêu nước. Vì thế chiếc áo dài truyền thống lúc này là một nét văn hoá tiêu biểu cho cái hồn của dân tộc. Hình ảnh người phụ nữ Hà thành trong trang phục áo dài là một nét đẹp cổ kính nhưng lại rất quyến rũ đã tạo nên nét đặc sắc riêng trong xu hướng thời trang tây hoá ồ ạt vào lúc này. Tuy nhiên phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể năm thân, hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía dưới khuỷu tay vì các loại vải ngày xưa chỉ dệt được rộng nhất là 40cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chít eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80cm. Cổ áo chỉ cao khoảng 2 - 3cm Riêng ở miền Bắc đặc biệt là Hà thành khoảng năm 1910 - 1920, phụ nữ thích may thêm một cái khuyết phụ độ 3cm bên phải cổ áo, và cài khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo như thế sẽ hở ra cho quyến rũ hơn và cũng để diện chuỗi hột trang sức nhiều vòng. Phần nhiều áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may có lớp lót. Lớp áo trong cùng thấm mồ hôi, vì thế được may đơn bằng vải mầu trắng để không sợ bị thôi mầu, dễ giặt. Một áo kép mặc kèm với một áo lót đơn ở trong đã thành một bộ áo mớ ba. Quần may rộng vừa phải, với đũng thấp. Thuở đó, phần đông phụ nữ từ Namra Bắc đều mặc quần đen với áo dài, trong khi phụ nữ Huế lại chuộng quần trắng. Trong các thập niên 1930 và 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, gấu áo dài thường được may trên mắt cá khoảng 20cm, thường được mặc với quần trắng hoặc đen và những gì khác biệt với những chuẩn mực đó đã bị các nhà tri thức khó tín cho là lai căng và sính ngoại. Hình ảnh cô gái trong bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệlà hình ảnh chiếc áo dài đã được cách tân, với chiếc áo dài này tuy đã che đậy tất cả, mà lại chả giấu giếm tý gì: phía trên, như một lớp da thứ hai, dán chặt vào bộ ngực và cánh tay. Cổ đượcn lên bởi một vòng cổ áo đứng. Và từ thắt lưng trở xuống, được xẻ làm đôi, tà áo nhẹ bay, uốn lượn tới gần đầu gối. Dưới đó là chiếc quần rộng, một màu, rất kính đáo nhưng cũng không kém phần quyến rũ khin lên những đường cong gợi cảm của người phụ nữ.Ngọc Vân vẽ bức “Thiếu nữ bên hoa huệ” là chủ động biểu hiện hệ đối tượng: thiếu nữ - hoa huệ. Thiếu nữ má hồng tân thời e ấp làm dáng. Sự chuyển động hình thể của cô gái cho thấy một sức sống tươi trẻ và trong sáng tuổi đôi mươi yêu cái đẹp. Búp tay tay nõn nà nâng nhẹ cánh hoa trắng tinh. Những cử chỉ động tác đều toát lên những cảm xúc lay động. Cái đẹp đã xua đi ác cảm về cái gọi là a dua, sính ngoại, lai căng. Nếu không "bước" vào trong bức tranh này, tà áo dài cách tân và cô gái duyên dáng ấy vẫn còn bị xì xào, lườm nguýt bởi sự khắt khe của lề thói văn hóa thẩm mỹ truyền thống. Những bóng hồng yêu kiều đó thường bị coi là lai căng. Nhưng nay, hình như trong mắt ai ai đều thừa nhận đó lại là một vẻ đẹp nữa của dân tộc. Áo nâu bạc màu, những cô hàng xén răng đen, đàn bà chân đất váy quay cồng hay những nón thúng quai thao, rồi đến tà áo dài tân thời... đều có vẻ đẹp và những giá trị riêng của nó.
Với nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại, cụm từ “thiếu nữ và hoa” dường như đã đi vào tiêu chuẩn. Quả thật có một thuật ngữ dân gian: “chim - hoa - cá - gái”như là thương hiệu được xây dựng quá vững chãi từ các bậc tiền bối họa sĩ Đông Dương. Những bậc lão làng như Lê Phổ, Nguyễn Gia Trí, Trần Văn Cẩn, Mai Trung Thứ. . . đã vô cùng điêu luyện và nổi danh với những tác phẩm về thiếu nữ cùng với hoa. Nhưng ở “Thiếu nữ bên hoa huệ” thìNgọc Vân đã tiếp nối các tiền bối làm cái đẹp đó trở nên phổ quát hơn nữa. Giai đoạn đầu, thiếu nữ và hoa đã từng xuất hiện ở tranh của họa sĩ danh tiếng Lê Phổ trong những khung cảnh đầy ảo mộng tran hòa với cỏ cây hoa lá. Lê Thị Lựu và Mai Trung Thứ cũng cùng một tiếng nói khi đặt nhân vật và những vật thể vào không gian trong tranh. Thường bắt gặp nhưng cô gái lơ đãng, những cặp mắt không đến một đích nào đôi khi man dại và mộng mị. Những đóa hoa trong một số bức tranh lược tả một cách lập lòe, hoặc những khóm hoa lẫn vào trời đất đầy huyền hoặc. Thẩm mỹ này dẫn đến lỗi vẽ phân rã hình thể, đôi khi mất hình. Trong những thập niên đầu của thế kỷ 20, đề tài quen thuộc này được thể hiện như là một sự nhất thể hóa của cái đẹp. Tức là trong tranh phải có cái gì đẹp và quyến rũ người xem. Các nhân vật và đối tượng trong tranh không nhất thiết phải nói nên danh tính của mình.Ngọc Vân và những họa sĩ cùng trang lứa đã có những biểu hiện khác so với các bậc họa sĩ đàn anh. Vẫn đề tài đó, nhưng với một tinh thần tươi tắn và có tính hiện thực hơn.Cô gái Hà thành ngồi vén tóc bên những đoá hoa huệ thơm ngát màu chủ đạo trong tranh là màu trắng của áo dài và của những bông hoa huệ. Người phụ nữ được ông thể hiện với lòng trân trọng trước đối tượng, không sa vào khoái cảm nhục thể, hay cũng không quá mơ hồ, ẻo lả, kiêu sa như người phụ nữ trong tranh của các họa sĩ đương thời.
Ngọc Vân tiếp nhận xuất sắc phương pháp tạo hình và sử dụng chất liệu sơn dầu từ các vị thầy người Pháp.Ông đã tiếp thu thành công  trong việc hoàn thiện và phát triển kỹ thuật vẽ chất liệu sơn dầu. Màu sắc sơn dầu đã trong trẻo tươi sáng hơn, có độ bóng đẹp, không thấm nước, bền vững và chịu được thử thách của thời gian.Với ưu thế của mình, sơn dầu được sử dụng rộng rãi, được dùng hầu hết các hoạ sĩ sử dụng một cách phổ biến. Tuy nhiên có thể nói, với hoạ sĩNgọc Vân việc hoàn thiện kĩ thuật vẽ tranh sơn dầu là một cuộc cách mạng kỹ thuật lớn, làm chuyển biến và nâng cao nghệ thuật vẽ tranh của ông.Việc đó giúp ông thực hiện được nhiều tác phẩm lớn, bất tử, đặc biệt là bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ. bức tranh diễn đạt được vẻ đẹp nền nã, kín đáo, thanh lịch của người phụ nữ Hà thành thời tiền chiến - một vẻ đẹp đã mãi mãi chỉ còn trong tâm tưởng và hoài cảm.
                                                                                                            Nguyen Dat

Kiệt tác Thiếu nữ bên hoa huệ vẽ năm 1943 có lẽ cũng mang số phận long đong của người đàn bà đẹp. Theo GS-TS Tô Ngọc Thanh, trưởng nam của họa sĩ Tô Ngọc Vân thì: “Khi gia đình đi kháng chiến, bức Thiếu nữ bên hoa huệ được để lại trong nhà chúng tôi ở ngõ Trại Khách, phố Khâm Thiên, nay là ngõ Thổ Quan. Đến khi hòa bình trở về Hà Nội thì bức họa đã trở thành sở hữu của nhà sưu tập nổi tiếng Đức Minh. Ông Đức Minh nói là mua lại của một người khác. Nghe nói khi ông Đức Minh qua đời thì các con ông bán bức tranh với giá 15.000 USD. Lúc ấy chúng tôi đã báo cáo việc này với ông Bộ trưởng Bộ Văn hóa và đề nghị Bảo tàng Mỹ thuật mua lại. Đáng tiếc là Nhà nước khi đó không thể chi món tiền lớn hơn định mức quy định nên câu chuyện rơi vào im lặng, để bức tranh vào tay nhà sưu tập sống ở Singapore, hình như (tôi không được biết chính xác) tên Hà Thúc Cần...”.
“Tôi không bảo đảm những điều nói trên là hoàn toàn đúng vì việc mua bán là việc riêng của hai bên, nên tôi không có cơ hội được tiếp cận, nhưng đó là tất cả những gì tôi được biết về sự việc này” - GS-TS Tô Ngọc Thanh thận trọng cho biết. 


Bức tranh Thiếu nữ bên hoa huệ
Bức tranh được treo ở Singapore rồi tiếp tục phiêu lãng. Thế là mấy mươi năm người Việt không còn được ngắm nguyên bản Thiếu nữ... mang nét buồn quý phái cúi xuống bông hoa trắng muốt kia nữa. Tất cả những bản in trong sách báo không đồng nhất. Cả bức in trên logo triển lãm nhân 100 năm Tô Ngọc Vân cũng là bản chép. Rồi thì trên thị trường tranh nhái, đi đâu cũng thấy Thiếu nữ bên hoa huệ. Nhiều bức sơn dầu vẽ giống 99%, giống đến cả chữ ký dưới tranh... Thiếu nữ bên hoa huệ có lẽ đã “nuôi” không biết bao nhiêu người chép tranh từ bấy đến nay!?
Có tin hiện nay, kiệt tác ấy của cố danh họa Tô Ngọc Vân đã trở về Việt Nam và hiện đương được một nhà sưu tập ở Hà Nội sở hữu với giá lên đến 200 ngàn USD. Chủ sở hữu bức tranh đã có lần muốn nhờ họa sĩ Tô Ngọc Thành (người con trai thứ của Tô Ngọc Vân) đến thẩm định hộ nhưng anh từ chối vì sợ là có thể nhìn thấy bức tranh Thiếu nữ... giả, khi đó điều đáng sợ nhất có thể xảy ra là sự sụp đổ của chủ nhân...
(Trích Báo TT&VH)

Tuesday, September 25, 2012

MỌI VIỆC RỒI SẼ QUA


Khi ta sinh ỏ trên đời
Một mình ta khóc, mọi nguời cười vui
Sống sao khi ta lìa đời
Quanh ta đều khóc riêng ta mỉm cười
MỌI CHUYỆN RỒI SẼ QUA
Một ngày nọ, vua Salomon bỗng muốn làm bẻ mặt Benaiah, một cận thần thân tín, nổi tiếng khôn ngoan, thông thái. Vua bèn nói với ông: “Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một món quà nhân lễ hội lần này, và ta cho ông 6 tháng để làm việc đó”
Benaiah trả lời: “ Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, tôi sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài, thưa đức vua” Nhà vua nói: “món quà đó có sức mạnh kì diệu. Nếu kẻ nào đang vui, nhìn vào nó sẽ thấy buồn, và nếu ai đang buồn nhìn thấy nó sẽ vui”. Vua salomon biết rằng sẽ không đời nào có một món đồ như vậy tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.
Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm ra một món quà như thế. Vào đêm trước ngày lễ, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi nghèo nhất của kinh thành. Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang bày những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn.
Benaiah dừng chân lại hỏi: “có bao giờ ông nghe tới một món đồ kì diệu làm cho người hạnh phúc nhìn thấy nó thì quên đi niềm vui sướng và người đau khổ nhìn thấy nó thì quên đi nỗi buồn ko?” Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên chiếc vòng đó, khuôn mặt ông rạng ngời một nụ cười.
Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mùa lễ hội. “Nào ông bạn của ta-vua Salomon hỏi-ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa? Tất cả cận thần đều cười lớn và cả Salomon cũng cười. Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói: “Nó đây thưa đức vua”. Khi vua Salomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua. Trên chiếc vòng đó có khắc dòng chữ: MỌI VIỆC RỒI SẼ QUA
Vào chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn ngoan, vương giả và quyền uy của ông đều là phù du, bởi vì một ngày nào đó nó sẽ trôi đi, bất cứ một đế chế chính trị nào đó rồi cũng sẽ tàn, ông cũng chỉ còn là cát bụi và tất cả chỉ là vô thường.
Nhân câu chuyện này xin giới thiệu bài viết dưới đây của Tiến sĩ Richard Carlson do Nguyễn Minh Tiến biên dịch:
Hãy nhớ rằng, 
MỌI CHUYỆN RỒI SẼ QUA
Nguyễn Minh Tiến biên dịch
 
Điều quý giá trong sự khôn ngoan để lại của người xưa đã giúp tôi rất nhiều là câu ngạn ngữ: «Mọi việc rồi đều sẽ qua đi.» Nó đã giúp tôi trong việc vượt qua những điều bực dọc hàng ngày mà mỗi người trong chúng ta đều phải đối mặt, cũng như nhiều giai đoạn khó khăn trong đời tôi.
Hãy nghĩ kỹ về điều này. Tất cả mọi việc đều đến, rồi đi. Những rắc rối được tạo thành, rồi tan biến. Một ngày kia, chúng ta đang trong kỳ đi nghỉ, ngày sau đó, trở lại với công việc. Chúng ta mắc phải một cơn cảm lạnh hay cảm cúm, và rồi nó qua đi. Chúng ta bị một vết thương, và rồi, trong hầu hết trường hợp, nó lành lặn trở lại. Chúng ta mong đợi một sự kiện, và rồi sau đó cũng biết là nó đã qua đi. Chúng ta mong đợi cúp bóng đá Super Bowl, và những ngày sau đó, lại mong đợi cho mùa bóng kế tiếp.
Có một cảm giác tự do lớn lao khi nhớ đến câu ngạn ngữ này. Trong thực tế, nó có thể là nền tảng của một cuộc sống thanh thản. Nó có tác dụng như một sự nhắc nhở quan trọng rằng mọi thứ đều có một không gian, thời gian nhất định của nó. Nó cho phép chúng ta nhìn thấy triển vọng tương lai trong những giai đoạn đang có khó khăn, một quy luật cơ bản là không có điều gì tồn tại mãi mãi. Nó mang lại cho chúng ta hy vọng và sự tự tin rằng chúng ta rồi sẽ vượt qua điều này – mọi việc sẽ trôi qua, chắc chắn như vậy.
Lấy ví dụ, khi bạn có con nhỏ, rất dễ có ý tưởng phàn nàn rằng: «Mình sẽ chẳng bao giờ có được một đêm yên giấc như xưa nữa.» Nếu không có triển vọng thấy trước là «Mọi việc rồi đều sẽ qua đi» thật rất dễ đi đến cảm giác quá sức chịu đựng, thậm chí thất vọng hoàn toàn trong những giai đoạn khó khăn này. Mỗi một đêm mất ngủ dường như là rồi sẽ kéo dài bất tận. Đầu óc bạn đầy sự lo sợ. Bạn cảm thấy tuyệt vọng, thấy trói buộc và như quá sức chịu đựng.
Nhưng chắc chắn là cũng giống mọi chuyện, giai đoạn này rồi cũng sẽ qua đi. Và bạn bước vào những giai đoạn thách thức mới. Cùng một khuynh hướng này sẽ áp dụng cho tất cả những thách thức khác nữa của cuộc sống. Bạn đang trải qua một cơn khủng hoảng và cảm thấy mình chẳng bao giờ có thể vượt qua nổi, nhưng rồi, bằng cách nào đó, bạn tìm được một giải pháp. Bạn có một trận cãi cọ dữ dội với vợ (hoặc chồng) mình, và thề là sẽ không bao giờ tha thứ. Nhưng cuối cùng thì bạn nhận thấy tận đáy lòng mình vẫn yêu thương như cũ. Bạn trải qua một giai đoạn cực kỳ bận rộn trong công việc, và bạn cảm thấy không thể nào chịu đựng lâu hơn nữa. Và rồi thời biểu của bạn cuối cùng cũng trở lại như bình thường. Lần này qua lần khác, chúng ta phấn đấu và vươn tới.
Khi chúng ta nhìn lại cuộc sống của mình, rất dễ dàng để nhận ra mọi việc đều đến rồi đi. Mùa xuân, mùa hạ, rồi mùa thu. Niềm vui, nỗi đau, sự khen ngợi, rồi chê trách. Khó khăn, dễ dàng, nghỉ ngơi và mệt nhoài. Thành đạt, thất bại, và bao nhiêu điều khác nữa.
Sự thanh thản và hạnh phúc chân thật chỉ đến khi chúng ta nhận ra được nguyên lý này, không chỉ bằng cách hồi tưởng lại, mà là ngay trong khi chúng ta đang trải qua những khó khăn. Bằng cách này, chúng ta giữ được trạng thái quân bình giữa sự hỗn loạn.
Khi bạn nhớ rằng mọi việc đều đến và đi, bạn giữ được cách nhìn của mình, một tâm hồn rộng mở, và thậm chí cả một tính khí khôi hài, vui vẻ trong mọi giai đoạn của đời mình.
Tôi khuyến khích bạn tự nhắc nhở mình câu ngạn ngữ này mỗi khi bạn cảm thấy bực dọc, căng thẳng hay khó chịu, cũng như trong lúc bạn trải qua những giai đoạn cực kỳ khó khăn. Cuộc sống rất ngắn ngủi. Con cái chúng ta nhỏ dại, rồi trưởng thành. Bản thân chúng ta trẻ khỏe, rồi già yếu. Chúng ta sẽ đi qua tất cả những điều đó.
Cách tốt nhất và hiệu quả nhất để duy trì một tâm hồn tươi đẹp và giữ cho chính mình không rơi vào cảm giác quá sức chịu đựng là luôn nhớ rằng, mọi việc – kể cả những việc rất khó khăn – rồi đều sẽ qua đi.
Trích từ sách:
Đừng mất thời gian vì những điều vụn vặt
Don’t Sweat the Small Stuff with your Family
Richard Carlson
Biên dịch : Nguyễn Minh Tiến

__._,_.___

Monday, September 24, 2012

NGÀY HÔM NAY, TÔI SẼ...


Ngày hôm nay, tôi sẽ... 
( To Day I will...) 
 
                                   Ngày hôm nay, tôi sẽ...
                                                                                            ( Bấm PLAY rồi bấm tiếp VIDEO

Ngày hôm nay, tôi sẽ tin rằng mình là người bình thường,
 một người không có gì quan trọng. Tôi sẽ lo bản thân tôi
với chính những gì tôi có và không so sánh mình với những
người khác

Ngày hôm nay, tôi sẽ tự lắng lòng mình và cố gắng
trầm
 tĩnh hơn. Tôi sẽ học cách kiểm soát những cảm xúc và suy
 nghĩ của mình.

Ngày hôm nay, tôi sẽ học cách tha thứ những gì
người khác đã gây ra cho tôi, bởi tôi luôn cố gắng nhìn
vào hướng tốt và tin vào sự công bằng của cuộc sống.

Ngày hôm nay, tôi sẽ cẩn thận hơn với từng lời
nói của mình. Tôi sẽ lựa chọn ngôn từ và diễn đạt
 chúng một cách có suy nghĩ và chân thành nhất.

Ngày hôm nay, tôi sẽ tìm cách sẻ chia với những
người bạn quanh tôi khi cần thiết, bởi tôi biết điều
quý nhất đối với con người là sự quan tâm lẫn nhau.

Ngày hôm nay, trong cách ứng xử, tôi sẽ đặt mình
vào vị trí của người đối diện để lắng nghe những cảm
 xúc của họ, để hiểu rằng những điều làm tôi tổn thương
cũng có thể làm tổn thương đến họ.

Ngày hôm nay, tôi sẽ an ủi và động viên những ai đang
 nản lòng. Một cái siết tay, một nụ cười, một lời nói
 có thể tiếp thêm sức mạnh để họ vững tin bước tiếp.

Ngày hôm nay, tôi sẽ dành một chút thời gian để
quan tâm đến bản thân mình. Tôi sẽ làm tâm hồn và trí óc
mình phong phú, mạnh mẽ hơn bằng cách học một cái
 gì đó có ích, đọc một cuốn sách hay, vận động cơ thể .

Ngày hôm nay, tôi sẽ có liệt kê những việc cần làm.
 Tôi sẽ nỗ lực nhất để thực hiện chúng và tránh
đưa ra những quyết định vội vã hay thiếu kiên quyết

Ngày hôm nay, tôi sẽ bỏ lại phía sau mọi lo âu, cay

 đắng và thất bại, khởi đầu một ngày mới chân thành
 và hồn nhiên nhất. Tôi sẽ sống với những khát khao,
mơ ước mà mình luôn ấp ủ.

Ngày hôm nay, tôi sẽ đối đầu mọi trở ngại trên con

đường mà tôi lựa chọn và đặt niềm tin. Tôi hiểu rằng,
 khó khăn là một phần của cuộc sống và chúng tồn tại
là để tôi chinh phục và vượt qua

Ngày hôm nay, tôi sẽ sống yên vui. Tôi sẽ trải rộng
 lòng để cảm nhận cái đẹp trong cuộc sống, để yêu
thương và tin tưởng những người tôi yêu quý, và những
 người thương yêu tôi. Tôi sẽ làm những việc khiến tôi
 cảm thấy hạnh phúc: xem một bộ phim hài hước , làm
 một việc tử tế, giúp đỡ một ai đó, gửi một mail điện tử,
 nghe một bản nhạc yêu thích...

... Và hôm nay, ngay bây giờ, tôi cảm nhận được
hạnh phúc và sức sống mới để bắt đầu một ngày mới
 thật có ích - bất kể ngày hôm qua như thế nào.
        
   Doanhdoanh sưu tầm




Sunday, September 23, 2012

HOÀNG QUÝ

HOÀNG QUÝ
(1920 - 1946 )

 Nhạc sĩ tiền chiến nổi tiếng, là một trong những gương mặt tiên phong của tân nhạc Việt Nam. Ông là tác giả của nhạc phẩm Cô láng giềng bất hủ.
Hoàng Quý sinh năm 1920 tại Hải Phòng, ông là anh trai của Hoàng Phú, tức nhạc sĩ Tô Vũ. Theo Phạm Duy, Hoàng Quý từng là học trò của Lê Thương tại trường Trung học Lê Lợi ở Hải Phòng vào cuối thập niên 1930. Hoàng Quý theo học nữ giáo sư âm nhạc Leperète dạy nhạc ở các trường trung học ở Hải Phòng. Nhờ có năng khiếu và ham học, Hoàng Quý tiếp thu âm nhạc khá tốt, chỉ một thời gian sau trở thành giáo viên dạy nhạc của trường Bonnal.
Và vào năm 1939, đúng lúc phong trào Nhạc cải cách vừa ra đời, cùng với các ca nhạc sĩ tài tử ở đất Cảng lúc đó là Phạm Ngữ, Canh Thân và em trai Hoàng Phú, Hoàng Quý là người đầu tiên trình diễn nhạc Lê Thương tại Nhà Hát Lớn Hải Phòng.

Suốt trong một thời gian từ năm 1943 cho tới 1945, Hoàng Quý đã quy tụ được một số bạn bè như Phạm Ngữ, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, và Hoàng Phú lập thành nhóm Đồng Vọng cùng nhau sáng tác. Nhóm Đồng Vọng được nhà xuất bản Lửa Hồng rồi tạp chí Tri Tân ở Hà Nội giúp đỡ. Lửa Hồng đã ấn hành 12 tập nhạc, mỗi tập có từ 8 đến 12 bài như các tập: Bên sông Bạch Đằng, Nước non Lam Sơn, Tiếng chim gọi đàn, Bóng cờ lau, Nắng tươi, Chiều quê của Hoàng Quý, Về đồng quê của Văn Cao, Ngày xưa của Hoàng Phú... Tổng cộng Đồng Vọng đã sáng tác và ấn hành khoảng trên 60 ca khúc chủ yếu theo xu hướng nhạc hùng có nội dung ca ngợi đất nước, ca ngợi truyền thống anh hùng của dân tộc. Riêng về phần Hoàng Quý, đã soạn ra những bài ca giá tri như Trên sông Bạch Đằng, Gọi bạn lên đường, Tiếng chim gọi đàn, Bóng cờ lau, Nước non Lam Sơn, Lời vọng ngàn xưa, Dưới bóng thông xanh, Chiều xuân, Nắng tươi...
Trước khi trở thành người soạn nhạc tiền đạo của xu hướng nhạc hùng, Hoàng Quý cũng đã đi vào lãnh vực nhạc tình, với những bài nhạc tình yêu như Tú Uyên, hay những bài nhạc tình quê như Chiều quê, Đêm trăng trên vịnh Hạ Long, Chùa Hương... mà nổi tiếng hơn cả là ca khúc bất hủ Cô láng giềng.
Cô láng giềng ra đời khoảng năm 1942-1943. Lúc đó Hoàng Quý rời Hải Phòng lên Sơn Tây để đến làm thư ký cho một trang trại nuôi bò. Chuyến ra đi đó ông đã phải chia tay với "bóng hồng" của mình. Khoảng 6 tháng sau, ông không làm việc ở Sơn Tây nữa và trước khi trở về Hải Phòng ông ghé thăm người em Hoàng Phú đang ở tại Hà Nội. Chính trong dịp này nhạc sĩ Hoàng Quý đã cho người em mình xem bài hát Cô láng giềng của ông.
Hôm nay trời xuân bao tươi thắm
Dừng gót phiêu linh về thăm nhà
Chân bước trên đường đầy hoa đào rơi
Tôi đã hình dung nét ai đang cười
Tôi mơ trời xuân bao tươi thắm
Đôi mắt trong đen màu hạt huyền
Làn tóc mây chiều cùng gió ngàn dâng sóng
Xao xuyến nỗi niềm yêu...
Nhạc sĩ Tô Vũ kể lại: "Với Cô láng giềng, anh tôi chỉ sáng tác lời 1. Đó là những vần thơ đầy lạc quan, phấn khởi khi chia tay người yêu và hy vọng một ngày trở về gặp nhau trong vui mừng. Còn lời 2 là do tôi sáng tác thêm, đó là cảnh chàng trở về, ngày có một đám cưới làng quê tưng bừng rộn rã của chính người yêu, và chàng buồn tình lặng lẽ ra đi... Thật ra lời 2 này không phải là tâm tư của Hoàng Quý mà do tôi hư cấu và Hoàng Quý đã đồng ý, xem như là một tác phẩm nghệ thuật chứ không phải là sự miêu tả một mối tình có thật, vì thực tế Hoàng Quý không có một bi kịch về tình yêu như nội dung của lời 2"

Trước ngõ vào thôn vang tiếng pháo
Chân bước phân vân lòng ngập ngừng
Tai lắng nghe tiếng người nói cười xôn xao
Tôi biết người ta đón em tưng bừng...
Đành lòng nay tôi bước chân ra đi
Giơ tay buồn hái bông hồng tường vi
Ghi chút tình em nói chờ đợi tôi
Đừng nói tới phân ly.
Cô láng giềng ơi
Nay mối duyên thơ đành đã lỡ rồi
Chân bước xa xa dần miền quê
Ai biết cho bao giờ tôi về.

Về Hoàng Quý, Phạm Duy đã nhận xét: "Đánh giá Hoàng Quý không nên chỉ thu hẹp vào những sáng tác của ông, bởi vì sự hoạt động cho nền nhạc hùng còn là một điều khiến chúng ta phải ghi nhớ và ghi ơn. Ông là linh hồn của đám nhạc sĩ trẻ ở Hải Phòng, thúc đẩy mọi người sáng tác và ông làm cho những sáng tác đó có một đời sống hẳn hoi, nghĩa là in ra, hát lên trong những sinh hoạt hướng đạo hay học sinh của ông". Văn Cao cũng thường nhắc tới Lê Thương và Hoàng Quý là hai nhạc sĩ có ảnh hưởng tới con đường âm nhạc của ông.
Hoàng Quý tham gia Việt Minh sớm, trong cao trào kháng Nhật cứu nước, nhà Hoàng Quý là cơ sở của một số người Việt Minh hoạt động bí mật ở Kiến An, Hải Phòng. Tháng 5 1944 Hoàng Quý viết bài Cảm tử quân, Sa trường hành khúc và tích cực tham gia hoạt động cách mạng. Tháng 10 1945, Tiếng gọi non sông ra đời, mặc dù lúc này sức khỏe đã giảm sút nhiều. Ông mất năm 1946.

ĐOÀN CHUẨN TỪ LINH

ĐOÀN CHUẨN TỪ LINH
Đoàn Chuẩn vốn là nghệ sĩ biểu diễn guitare hawaienne, nhưng được biết đến nhiều hơn với vai trò nhạc sĩ sáng tác.
Đoàn Chuẩn - Từ Linh là bút danh của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn khi sáng tác nhạc.

Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn viết bài đầu tiên "Tình nghệ sĩ" năm 24 tuổi (1948), tuổi bắt đầu dấn thân vào cuộc đời, vào tình yêu để cho đến gần mười năm sau, thành một chùm bài hát đều đặn "mười phân vẹn mười" như đã được biết: Tình nghệ sĩ, Lá đổ muôn chiều, Gửi gió cho mây ngàn bay, Chuyển bến, Cánh hoa duyên kiếp, Thu quyến rũ, Tà áo xanh, Lá Thư, Gửi người em gái miền Nam, Đường về Việt Bắc.

Có lẽ trong các nhạc sĩ Việt Nam, Đoàn Chuẩn mới là người có thể kể ra đầy đủ tác phẩm một cách không cần dùng dấu ba chấm đến như vậy. Tất nhiên, sự nghiệp sáng tác của ông không gọn gẽ một cách lạ lùng như thế. Ông viết thêm khoảng 6 ca khúc rải rác cho quãng thời gian sau này, nhưng tinh hoa phát tiết đã trọn vẹn trong 10 năm ấy, 10 tác phẩm ấy.

Sinh ngày 15/6/1924, tại Hải Phòng, mảnh đất có nhiều nhân vật đóng góp lớn cho nền âm nhạc Việt Nam thời điểm khởi đầu: Lê Thương, Văn Cao, Hoàng Quý, Hoàng Phú (Tô Vũ)... Trong đó, chính nhóm Đồng Vọng mà Hoàng Quý chủ xướng đã tạo nên không khí sáng tác cho dòng nhạc lãng mạn thời gian này.

Đoàn Chuẩn lại trưởng thành ở Hà Nội, không những thế, lại còn trong một gia đình tư sản cỡ lớn: Hãng nước mắm Vạn Vân (Hà Nội đầu thế kỷ từng có câu: Cốm Vòng, cà Báng, húng Láng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô Đầm Sét), hãng này nổi tiếng khắp Đông Dương. Đi kháng chiến, thì Đoàn Chuẩn vẫn là công tử Hà thành chính hiệu.

Cả 10 bài hát viết trong thời gian kháng chiến mà người ta không thấy bóng dáng kháng chiến ở chỗ nào! Ông đã nhận mình là "tay mơ" trong sáng tác, và trong cả... tình yêu. Chẳng hạn, Tình nghệ sĩ là khi đi tản cư, do mê một cô nàng bán hàng cà phê xinh đẹp người Hà Nội. Quán tên là Thanh Hương, vì thế ban đầu nhạc sĩ nghĩ : "Đây quán Thanh Hương mấy thu đầm ấm..." sau đó, mới thành "Đây khách ly hương mấy thu vàng ấm.

Nơi quán cô đơn mơ qua trùng sóng...". Cũng may, không thì ngày nay Tình nghệ sĩ lại không còn quảng đại mà sẽ bị gói trọn trong hai chữ Thanh Hương xa xôi ngày nào. Tự nhận mình là đa tình, thích gái đẹp. Có lẽ chính vì thế, khi có gia đình rồi, có được người vợ cũng đẹp lắm rồi, ông "hết hứng" viết. Chính bản thân ông cũng thành thật nói lên một điều "rất đáng tiếc" của mình cuối đời là tiếc sao "Tất cả những cô ca sĩ hát nhạc Đoàn Chuẩn - Từ Linh hay thì... chẳng có cô nào đẹp cả", mà ông suốt đời chỉ yêu cái đẹp thôi!

Ngay cả bút danh Từ Linh ký chung trong các bản nhạc của ông cũng là một kỷ niệm đẹp. Từ Linh vừa là bạn, vừa là tri âm. Người, không biết thực hư thế nào và trong những câu chữ nào, đã sửa soạn góp ý cho những bản thảo của Đoàn Chuẩn. Từ Linh đã mất vì ung thư năm 1992.

Cũng thật may mắn, người hát nhạc Đoàn Chuẩn lại là Khánh Ly, và vài chục năm sau đó, ca sĩ Ánh Tuyết đã làm sống lại những ca khúc bất hủ này trong một tâm trạng mới, một luồng cảm xúc mới và một hơi thở mới...


Trong cao trào cách mạng, ông tham gia thanh niên xung phong thành Hoàng Diệu. Kháng chiến toàn quốc, ông vào tham gia công tác văn nghệ ở Khu IV và bắt đầu sáng tác ca khúc. Các bài Tình nghệ sĩ (1948) và Đường về Việt Bắc được viết vào thời kỳ đó. Sau đó, Đoàn Chuẩn về lại Hà Nội tạm chiếm. Tình khúc Đoàn Chuẩn bắt đầu nổi tiếng ở giai đoạn này. Toàn bộ ca khúc của mình, ông đều đề tên chung Đoàn Chuẩn - Từ Linh trong phần tác giả.

Tình khúc Đoàn Chuẩn in đậm mùa thu Hà Nội. Đó là Gửi gió cho mây ngàn bay, Lá thư, Thu quyến rũ, Cánh hoa duyên kiếp (còn gọi là Dạ lan hương), Tà áo xanh, Chuyển bến, Lá đổ muôn chiều...

Bài hát Gửi người em gái miền Nam được viết sau ngày Hà Nội giải phóng dường như là bài hát cuối cùng khép lại sự nghiệp sáng tác của Đoàn Chuẩn. Ông viết không nhiều nhưng tình khúc của ông để lại một ấn tượng sâu sắc trong lịch sử tân nhạc Việt Nam.

THƠ BÙI GIÁNG


THƠ BÙI GIÁNG

Bùi Giáng
(1926 - 1998)
Hỏi tên : rằng biển xanh dâu
Hỏi quê: rằng mộng ban đầu đã xa
Bùi Giáng 

Cõi thơ đáng đọc nhất là cõi thơ Bùi Giáng. Người thơ đáng học nhất là người thơ Bùi Giáng. Tôi nghĩ vậy. Nhưng, tuy đã trích một số thơ của ông để giới thiệu từ mười năm trước, tôi vẫn chưa viết được một chữ về ông.
Có thể nói là tôi rất sợ. Sợ rằng mình không đủ năng lực để luận giải hay chạm đến cảnh giới và nguồn cơn của một cuồng-thi-sĩ thượng thừa như thế.
Tôi đã đọc vài người viết về ông từ những năm ông vừa mất. Họ bàn luận về cõi điên và cõi thơ của ông, đọc nghe thú vị lắm. Rồi trôi đi mười năm, mười bốn năm kể từ khi ông từ giã cõi đời thơ mộng, tôi vẫn có hy vọng một lúc nào sẽ tỉnh táo và hứng thú để viết chi đó, phân tích hoặc bàn luận về nhà thơ điên có một không hai của nền thi ca Việt Nam. Nhưng tôi đã thất bại. Thực sự là chẳng thể viết gì được về con người và cõi thơ dị thường ấy.
Gom lại những ngôn từ ông dùng đến trong thơ, chẳng bao nhiêu cả. Xào đi, xáo lại, đảo tới đảo lui, vẫn bấy nhiêu con chữ ấy thôi. Nhưng ý lực và ngôn lực thì vô cùng mạnh mẽ, vô cùng thênh thang. Trong khuôn khổ mà vượt ngoài khuôn khổ, trong vần điệu mà không vướng mắc ở vần điệu. Ý lực đẩy cho ngôn từ tràn lan. Ngôn lực phá tung những vần điệu và thể cách. Là giòng cuồng lưu của ngôn ngữ, mà đồng thời là vũ điệu sương khói nhẹ nhàng của những con chữ trên sàn nhảy hư không.
Đây, hãy đọc thử một bài lục bát:
Mùa phượng cũ
Thiệt thòi đời mộng phiêu linh
Cành sương ngọc thụ tồn sinh cát lầm
Giấc quày quả lạnh anh trâm
Bóng đu sung rớt bến trầm luân sâu
Hoài mong hiu hắt nhịp cầu
Mà hương quan vắng xa màu mây trôi.

Sim ngàn sổ lá buông rơi
Cành Nam ước nguyện sai lời tử sinh
Gió sương từ tạ biên đình
Bóng sa hồ khép chặt tình mông lung
Rêu tần ngần tuyết in phong
Sóng phơi trường mộng từ trong dậy nguồn

Rập rờn đầu liễu xanh buông
Mùa trăng nước đẩy xô buồn đi xa
Trang hồng kim rải ra hoa
Trổ bông mùa phượng cũ đà hồ phai
Tơi bời ngọc trắng măng mai
Khuynh thành sắc nọ đưa vai nghiêng về.
Đọc thơ ông, nếu không hiểu chi, cũng không sao. Giống như nhạc, hay như một vũ điệu. Hãy nghe, hãy nhìn. Tinh túy của nó dường như không đặt nơi ý tứ, mà ở nơi tiết điệu của âm thanh và sự uốn lượn của hình sắc. Ngay nơi tiết điệu và sự uốn lượn ấy, nắm lấy cái ý, còn không thì sẽ chẳng bao giờ nắm được về sau. Nhưng cứ đọc. Và không nhất thiết phải bàn.
Cho nên, nói rằng tìm cơ hội nào đó thật tỉnh táo hay hứng cảm cùng tột để viết về ông,  về thơ ông, là điều bất khả. Mà chờ đợi một cơn điên chợt đến để đọc lại càng bất khả. Bởi cơn điên tối thượng ấy của ông, khó mà thâm nhập nổi. Điên quá đến nỗi chẳng còn chi là thơ thì không thể đọc thơ điên. Thơ quá mà chẳng điên, cũng không thể cảm nhận được cái "rực rỡ," "lừng lẫy," "vẻ vang" (*) của cõi thơ-điên lồng lộng Bùi Giáng.
Vậy thì, hãy cứ đọc. Đừng nói nữa.
California ngày 7/7/2012
Vĩnh Hảo
____________
(*) chữ của Bùi Giáng dùng trong "Tiểu Sử Tự Ghi" ngày 22.8.1993, năm năm trước khi ông mất.
---oOo---

TIỂU SỬ TỰ GHI:
(của nhà thơ Bùi Giáng - nguồn: vnthuquan.net)

1926 - được bà mẹ đẻ ra đời
1928 - bị té bể trán, vết sẹo còn nguyên kỷ niệm, hai năm trời chết đi sống lại
1933 - bắt đầu đi học a, b, c... trường làng tại Thanh Châu với Thầy Cù Đình Qúy
1936 - học trường Bảo An với thầy Lê Trí Viễn
1939 - ra Huế học tư thục với những thầy Cao Xuân Huy, Trần Đình Đàn, Hoài Thanh Nguyễn đức Nguyên, Đào duy Anh, vân vân
1940 - về Quảng Nam chăn bò
1942 - trở ra Huế, vì nhớ nhung gái Huế
1949 - nhập ngũ , bộ đội công binh. Hai năm sau giải ngũ
1952 - vào Sài gòn, 1955 (57) khởi sự viết về Nguyễn Du và một vài nhận xét về Truyện Kiều và một vài nhận xét về Bà Huyện Thanh Quan, một vài nhận xét về Chinh Phụ Ngâm...(TÂN VIỆT xuất bản)
1957 - TÂN VIỆT xuất bản :giảng luận về Tản Đà Nguyên Khắc Hiếu, giảng luận về Chú Mạnh Trinh, giảng luận về Tôn Tho Tường và Phan Văn Trị.
1962
Tập thơ Mưa Nguồn
Tư Tưởng Hiện Đại
1963
Lá Hoa Cồn (thơ)
Ngân Thu Rớt Hột (thơ)
Màu Hoa Trên Ngàn (thơ)
Martin Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại (hai tập) (do đứa em ..)
1965 - nhà cháy mất trụi bản thảo
In vội vàng Sa Mạc Phát Tiết (An Tiêm)
Dialogue (viết Avantpropos (viết giúp cho Nhất Hạnh, Lá Bối) và Letre à René char) (Lá Bối in)
Sa Mạc Trường Ca (An Tiêm in bản)
1968 - 68
Dịch Martin Heidegger Erlauteninger gu Heidergger dich. Giảng giải về thơ.
(Lời, Cố Quận (An Tiêm) Lễ Hội Tháng Ba) (Quế sơn Võ Tánh)
Con Đường Ngã Ba (An Tiêm)
Bài Ca Quần Đạo (Nguyễn Đình Vương) 
 1969 - Bắt đầu điên rực rỡ 
 1970
1. Lang Thang Du hành Lục Tỉnh (Khách sạn Long xuyên Bà Chủ cho ở đầy đủ tiện nghi không lấy tiền)
2. Gái Châu Đốc Thương yêu và Gái Long Xuyên Yêu dấu
3. Gái Chợ Lớn Khiến bị bịnh lậu (bịnh hoa liễu) 
 1971 - 75 - 93
Điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang
Rong chơi như hài nhi (con nít)
Được gia đình ông Phó Chủ Tịch (482) Lê Quang Định, Hội Đồng Thành Phố đối xử thơ mộng thênh thang.
Kính dâng Kim Thúy, Kim Hồng, Kim Hoa, đôi lời rốt cuộc...
Bình sinh mộng tưởng vấp phải niềm thương yêu của Kim Cương Nương Tử, Hà Thanh Cố Nương và Mẫu Thân Phùng Khánh (tức Trí Hải Ni Cô)
Do đâu mà ra được như thế?
Đáp: Có lẽ đầu tiên kỳ tuyệt là do ân nghĩa bốn bề thiên hạ đi về tập họp tại Già Lam, Vạn Hạnh và Long Huê và Tịnh Xá Trung Tâm và Pháp Vân và xiết bao Chùa Chiền Miền Nam nước Việt, không biết nói sao cho hết. 
 (22-8-93)

oOo
Anh lùa bò vào đồi sim trái chín
Anh lùa bò vào đồi sim trái chín
Cho bò ăn cỏ giữa rừng sim
Anh nhìn lên trời xanh đỏ chín
Anh ngó bốn bề cây lá gió rung rinh

Anh nằm xuống để nhìn lên cho thỏa
Anh thấy lòng mở rộng đón trời xanh
Chim ngây ngất vào trong đôi mắt lả
Anh lim dim cho chết lịm hồn mình

Anh quên mất bò đương gặm cỏ
Anh chỉ nghe tiếng cọ rì rào
Có hay không? bò đương gặm đó?
Hay là đây tiếng gió thì thào?
Hay là đây tiếng suối lao xao
Giữa giòng cỏ xuôi ghềnh chảy xuống?

Mùi thoang thoảng lách lau sương đượm
Mùi gây gây gấy gấy của hương rừng
Mùi lên men phủ ngập mông lung
Không biết nữa mà cần chi biết nữa

Cây lá bốn bên song song từng lứa
Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn
Hạnh phúc trời với đất mang mang
Với bò giữa rừng hoang đương gặm cỏ
Với người ngó ngất ngây đương nằm đó
Không biết trời đất có ngó mình không
(Vĩnh Trinh - Thạch Bàn 1950)


Áo xanh
Lên mù sương, xuống mù sương
Bước xa bờ cỏ xa đường thương yêu
Tuổi thơ em có buồn nhiều
Thì xin cứ để bóng chiều đi qua
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh.
(1926 - 1998)


Cây cỏ dậy thì
Em đi cây cỏ dậy thì
Ngày xuân vô lượng cùng đi lên đường
Trùng lại giây phút phố phường
Niềm vui quá khứ phi thường hồi sinh.


Chiều
Em ngó buổi chiều buồn có phải
Buồn cũng như buồn những buổi chiều xưa
Tròng con mắt đã mỏi mòn có phải
Sắc của trời hương của đất lưa thưa

Những nhịp bước bên đường còn dội mãi
Vang về đâu không vọng lại hồi âm
Của réo rắt riêng một lần mãi mãi
Gió phương trời ù mộng giữa hoa tâm

Em hỏi mãi tuy biết lời đáp lại
Chẳng bao giờ thoả đáng giữa đời câm
Em ngó mãi những chiều về trở lại
Mang những gì về trong cõi trăm năm.


Dư vang
Sáng nay chim hót lạ lùng
Tưởng từ mộng tưởng núi rừng xa xôi
Sáng nay mây gió đầy trời
Vườn Xuân lá lục em ngồi ngắm hoa

Sáng nay tình tự ngọc ngà
Người yêu ở lại giang hà tuổi xanh
Ngàn dặm em đi cùng anh
Dừng chân bến nước long lanh mây vàng

Ta ngồi ngóng mãi dư vang
Kéo dài giữa cuộc tân toan sinh bình
Dư vang từ những bình minh
Phương trời cổ lục kiên trinh đợi người.


Vì sao khùng
Vì yêu dấu quá Nàng thơ
Với em vô tận nên ngơ ngẩn buồn
Thần tiên Thánh Phật bao dung
Hiểu lòng tôi lắm - tôi khùng vì thơ.


Mười hai con mắt
Hùm thiêng một cặp nhu mỳ
Một đôi bốn mắt từ bi mơ màng
Từ phen đá biết tuổi vàng
Một lời vâng tạc muôn vàn mai sau
Ăn làm sao? nói làm sao?
Thủy chung muôn một? còn đau đớn nghìn?
Hùm thiêng chắp nối của tin
Cho người thổn thức cầu xin đá vàng
Ấy từ khởi sự dư vang
"Ngựa về Núi Đá điêu tàn đầu thai"
Em về trúc thạch mốt mai
Sẽ nhìn thấy mãi thiên tài chết điên
Từ Bi một cặp Hùm Thiêng
Sẽ từ đó nói liên miên một lời.


Người con gái mặc quần
Người con gái hôm nay mặc quần đỏ
vì hôm qua đã mặc chiếc quần đen
đen và đỏ là hai màu rồi đó
cũng như đời, đường hai nẻo xuống lên

Người con gái hôm nay mặc quần trắng
vì hôm qua đã mặc chiếc quần hồng
hồng và trắng là hai màu bẽn lẽn
cũng như núi và rừng đều rất mực chênh vênh

Người con gái hôm nay mặc quần tím
vì hôm qua đã mặc chiếc quần vàng
vàng và tím là hai màu mỉm miệng
mím môi cười và chúm chím nhe răng

Người con gái hôm nay mặc quần rách
vì hôm qua đã mặc chiếc quần lành
lành và rách đều vô cùng trong sạch
bởi vì là lành rách cũng long lanh.


Lời người điên
Chúng tôi người ngợm vô thường
Lúc mê man lúc chán chường thể thân
Các em gắng gổ đôi phần
Đừng quên uống rượu lần khân sinh bình
Dịu dàng sống giữa gia đình
Ngày ngày tháng tháng hậu tình năm năm
Trái tim nguyệt tỏ đêm rằm
Máu me mây gió tơ tằm vấn vương
Ở đời kiệt tận xẩu xương
Hình hài biến thể thân mường tượng thân.


Giòng sông
Chiều bên lá lung lay vàng cửa khép
Bóng trời sa trùm phủ tiếng em cười
Vườn cỏ lạnh hoa buồn không nói xiết
Bước chân dừng nghe rã lệ hai nơi

Lời hẹn ước em nghiêng đầu tóc xõa
Để than van sầu thiên cổ theo nhau
Hồn tuổi trẻ bay trở về giữa dạ
Nhờ dung nhan em bất tuyệt xuân đầu

Trời thuở đó ngần nào em khổ sở
Khóc khi nhìn gió thổi nước sương buông
Tìm xa vắng bên kia bờ đổ vỡ
Giòng sông em đâu có biết ngọn nguồn.


Người điên uống rượu
Uống và say nói lăng nhăng
Miệng mồm lý nhý thằn lằn đứt đuôi
Tâm can chân thể chôn vùi
Mặt trời không mọc với người lem nhem
Còn đâu nguyệt tỏ bên thềm
Ôi người uống rượu còn thêm điên rồ.


Mái hiên
Bay về ổ chín từng cao
con chim giã biệt chào mái hiên
nước lang thang cháy xà miền
vòng quanh ngõ nọ mà triền miên chi
tôi người thủy thủ ra đi
chân trời thấy nước đợi kỳ lên mây
sao đêm đố xuống triều đầy
ai đưa kiếm vút ngang mày hư không

gió theo cánh ngỗng ngang trời
chớ sương tuyết cũ lại đời phiêu linh
từ đây ta hẹn với mình
hồn trong cõi mộng biên đình chưa tan
đầu hiên cung bậc điêu tàn
lần kia đổ giậu giọng vàng xô mau
lạnh lụng dấu bước bờ sau
mấy đời ly biệt về đau trong mình
năm sầu sa mạc nín thinh
đi vào giá buốt mông mênh cuối trời.


Những nhành mai 
Những nhành mai sớm sương bên lá
Những nhành liễu chiều gió bên cây
Cũng lay lắt bởi đời xuân em ạ
Thế nên chi anh cũng viết giòng này .

Hồng vàng tụ bữa kia em có thấy
Nước xuôi giòng là cổ độ nhìn theo
Tuổi mười sáu bây giờ lên gấp gảy
Mộng miên man là mây phủ lưng đèo

Buồn phố thị cũng xa bay như gió
Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như hươu
Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó
Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu

Tìm theo dấu chân người xưa tư lự
Ở bên đường ngóng dõi khánh vân bay
Mờ con mắt một lần lên tiếng thử
Em ồ em, anh nói một lời này.


Quanh co
Quanh co phường phố gọi mình
Sao ngôn ngữ bỗng tự tình quả nhiên
Cô đơn chứa đựng đầy miền
Cảo thơm tiền kiếp quả nhiên bây giờ.


Màu trời đó
Màu trời đó bữa nay về trở lại
Một mùa xưa người nhớ chứ năm kia
Ngày chạm mắt dưới mùa xuân man dại
Dịp trùng lai em hẹn với tan lìa

Đường có cỏ có bờl lau rộng có
Lá cây bay và em có đi qua
Bàn chân bước lệ buồn em có nhỏ
Xuống điêu tàn em khóc mộng tiêu ma

Nguồn thao thức ta về từ một buổi
Trời bay mây bốn hướng gió xa mong
Từng cánh én mang trùng dương về nội
Đâu rồi em? sóng đục đã theo giòng

Em cho phép ta ngồi đây hỏi lại
Và gọi về trăng mùa cũ lang thang
Màu trời đó để ngàn sương hớt hải
Xuống li ti là dựng vội con đường.


Theo áng mây bay
Tháng năm dòng nước trôi xa
Người qua, người sẽ đi qua những người
Tôi qua... không một hẹn lời
Hẹn hò chi bấy, bước dời về đâu ?

Tặng đời đóa đóa hoa sầu
Nhớ nhau từ đóa mộng đầu rã đôi
Giọt nước như giọt mưa rơi
Mỗi mùa mưa đến tôi ngồi chắp tay

Mưa về đọng ở hàng mi
Mắt tôi hồng lệ dựng xây hồng vàng
Đèo bồng đeo đuổi đa mang
Đẩy xua u oán, đá vàng hiểu cho

Đi đi lỡ bước sang đò
Cuồng ca túy vũ không dò lênh đênh
Đi đi suốt kiếp mỏi mềm
Nhọc nhằn đã lắm còn lênh đênh hoài

Gịot mưa gõ nhịp dẻo dai
Hoàng hôn gõ nhánh cửa cài kín bưng
Đi đi tình mộng vô chừng
Đăm chiêu vô tận ngại ngùng vỡ toang

Như tia nắng biếc chiều tàn
Lửa đời thoi thóp khôn hàn trái tim
Niềm vui níu nhánh mộng chìm
Tâm hồn cô độc tâm tình tìm nhau

Gom từng cơn nắng nhỏ chơi
Nụ cười hiu hắt phanh phơi nỗi đời
Nhánh đời gió lộng trùng khơi
Nhặt lên thả xuống chiều vời vợi bay.

Nỗi lòng Tô Vũ
(Kỷ niệm một đoạn đời 15 năm chăn dê ở núi đồi
Trung Việt Nam Ngãi Bình Phú )


Đồi tăm tắp chạy về ôm chân núi
San sát đồi phủ phục quấn núi xanh
Chiều xuống rồi tơ lòng rộn ràng rối
Trời núi đồi ngây ngất nhảy dê nhanh

Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Nhảy múa tung sườn núi vút giòng khe
Thôi từ nay tha hồ em mặc sức
Vang vang lên đồi núi giọng be be
Những bận nào Trà Linh qua Đá Dừng Hòn Dựng
Dùi Chiêng về Phường Rạnh ngược Khe Rinh
Bao lần anh cùng chúng em lận đận
Bôn ba qua rú rậm luống rùng mình

Những bận nào Quế Sơn Rù Rì con suối ngược
Nước trôi nguồn nước lũ xuống phăng phăng
Những bận nào mịt mùng mưa gió ướt
Đẫm thân mình co rúm lạnh như băng

Em nhớ hay không? hồn hoa dại cỏ
Những ngậm ngùi đầu núi canh khuya
Vàng cao gót nai đầu truông hãi sợ
Gió cây rung trút lá mộng tan lìa

Nhưng từ nay Giáp Nam anh đóng trại
Cố định rồi - em khỏi ngại ngày đêm
Dưới nắng mưa tha phương du mục mãi
Cay đắng từng, bùi ngọt mặn mà thêm

Chiều hôm nay bên chó vàng chễm chện
Anh lặng nghe em bé hé bên sườn đồi
Khoanh mấy vòng tay anh thoăn thoắt bện
Vòng cho em từng chiếc sắp xong rồi

Chiều đã xuống em đà no nê chắc
Huýt tù và! em xúm xít lại anh đeo cho
Mỗi chúng em mỗi vòng mây mỗi sắc
Lại mau đây! to nhỏ cổ anh so

Này em Đen chiếc vòng vàng tươi lắm
Này em Vàng chiếc trắng há mờ đâu
Này em Trắng chiếc hồng càng lóng lánh
Này em Hoa Cà
(1) hỡi! chiếc nâu

Ngẩng đầu lên! dê ơi anh thong thả
Đeo vòng vào em nghển cổ cong xinh
Ngẩng đầu lên! đây lòng anh vàng đá
Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên

Ngẩng đầu lên nhìn anh mờ mắt lệ
Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi
Trao người em trăm năm lời ước thệ
Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi
(2)

Vòng em xong, vòng anh dành riêng chiếc
Dành riêng mình - Dê hỡi hiểu vì sao ?
Vì lòng anh luống âm thầm tha thiết
Gán đời mình trọn kiếp với Dê Sao

Nhìn anh đây các em Vàng Đen Trắng
Tía Hoa Cà lổ đổ thấu lòng chưa ?
Từ từ đưa chiếc vòng lên thủng thẳng
Anh từ từ đưa xuống cổ đong đưa

Và giờ đây một lời thề đã thốt
Nghìn thu sau đồi núi chứng cho ta
Cao lời ca bê hê em cùng thốt
Hòa cùng lời anh nghẹn nỗi thiết tha

Và giờ đây hoàng hôn mờ trĩu nặng
Bốn bề tràn lan bóng mịt mùng sa
Xếp hàng ngay nhanh lên hàng ngũ thẳng
Rập ràng về bế hế rập ràng ca
.

____________

(1) Dê Hoa Cà có lông lổ đổ tía hồng xem như hoa cà vậỵ Đẹp vô cùng. Nhất là những buổi chiều, sắc lông óng ả dưới nắng vàng - xa xa hình bóng dê rực rỡ nổi bật trên triền núi xanh lợ Dê Hoa Cà còn gọi là Dê Sao (vì lông lổ đổ sáng như sao).
(2) Ý nói cái lần đầu, thuở hai mươi tuổi, trao cái
vòng ngọc cho vị hôn thê mà không cảm động bằng lần đầu đeo vòng cho dê vậỵ