THƯ NGỎ

WELCOME TO TV6269

Các bạn thân mến,

Năm 1962 chúng mình bước vào Trưng Vương bằng những bước chân ngập ngừng của những cô bé lớp Đệ Thất ngây thơ. Rồi 7 năm học trôi qua những kỷ niệm với bạn bè, với Thầy Cô, với lớp học, với ngôi trường yêu dấu đã để lại trong ký ức của chúng mình tình bạn thân thiết và những kỷ niệm êm đềm, mơ mộng của một thời áo trắng TV.

Ngày nay tuy ở khắp mọi nơi, chúng mình đã tìm gặp lại nhau. Xin chào mừng tất cả các bạn và ước mong qua trang Blog Trưng vương 62-69 này sẽ là nơi gặp gỡ thân ái để TV6269 cùng ra chơi, vui đùa như ngày xưa trong sân trường yêu dấu.

TV6269







Sunday, October 27, 2013

DUYÊN HỘI NGỘ

DUYÊN HỘI NGỘ

Ô hay, thu đã đến rồi sao?


Nàng thu vẫn rón rén đến  với bầu trời xam xám, chút gió thu man mát trong một một sáng thứ bảy... Tôi muốn đi tìm một chút thu của vùng Cali nắng ấm. Lang thang trong khu chợ trời Golden West, cây lá vẫn xanh tươi , chẳng thấy đâu " vàng rơi , thu mênh mông", bỗng thấy một màu vàng nâu đẹp từ vài cây không biết tên, một cậu nhỏ Mỹ đi ngang và tôi đã có chút thu Cali .


Cũng sáng thứ bảy, cô bạn thân Kim Hưng từ San Jose báo đã đến Cali và chúng tôi  hai đứa đã có những hò hẹn...
Ý nghĩ DVD" Trưng Vương 62-69, một thoáng hạnh phúc" sẽ được trình làng với các bạn OC  và tại sao lại không dành cho cô bạn già một thoáng hạnh phúc?  Người đầu tiên  tôi nghĩ đến là Hồng Phúc, cô bạn thật dễ thương và hiếu khách của chúng tôi." Được lời như cởi tấm lòng", các cuộc gọi của tôi đều được đáp ứng.
Một cuộc họp mặt lịch sử, chỉ trong nửa ngày mà sẽ hứa hẹn có nhiều niềm vui.Thật đúng là duyên hội ngộ.

Căn nhà xinh xinh của Hồng Phúc vẫn là một nơi hò hẹn lý tưỡng của TV OC chúng tôi.
 Ôm chặt nhau trong  nụ cười hạnh phúc sẽ là những kỷ niệm đẹp. Những nụ cười thoải mái như tạm quên đi những nhọc nhằn của cuộc sống . Tranh nhau nói, tranh nhau cười như trẻ thơ là những thoáng hạnh phúc . Chúng tôi vẫn khỏe mạnh, vẫn còn ăn nhiều , nói to... Bước vào tuổi mùa thu , thế nhưng chúng ta vẫn chưa già đâu các bạn nhỉ?
DVD" TV62-69. một thoáng hạnh phúc" được trình làng
Bên nhau , cùng ăn , cùng hàn huyên vẫn là  giờ phút không thể nào quên trong
những cuộc hội ngộ. Bánh cuốn Thanh Trì, đậu rán, giò với nước mắm nguyên chất , vắt một chút chanh vài lát ớt gợi nhớ về Hà nội. Món bún bung được nấu theo  yêu cầu của Xuân Dung cũng là một món ăn của người Hà Nội . Ngoài cô bạn Kim Hưng là người miền Nam, bọn chúng tôi đều là " những cô Bắc kỳ nho nhỏ"!!!! Miền Trung cũng được góp mặt với món hến xúc bánh tráng, ăn lạ miệng và hấp dẫn.Một cái bánh dứa, nấu bằng nồi nấu cơm và những chữ được vẽ vụng về " TV OC + HƯNG" nhưng rất đẹp trong tình bạn ấm áp của chúng tôi.

Bên nhau trong hạnh phúc
...đắm chìm trong hạnh phúc

Cùng bên nhau , cùng thấy nhau trên màn hình TV, chúng tôi cùng chỉ trỏ, cũng la lớn...- coi kìa XDung và Nội sao mà dễ thương thế kia- chúng tôi như cùng tham dự và vui với những niềm vui của các bạn tôi trong nhiều cuộc hội ngộ....
Chúng tôi đã có những tấm hình thật đẹp của tình bạn khi bên nhau, các bạn tôi tuy cũng hơi vất vả khi tôi yêu cầu các bạn  nhớ cười nhé, bạn này ngồi bên bạn này nè, thế nhưng khi xem lại hình , ai nấy đều hoan hỉ..

Năm đứa chúng tọi cùng học chung từ lớp Đệ Thất P2
Một tấm ảnh dễ thương nhất trong cuộc họp mặt hôm nay của tình bạn TV 69 OC của chúng tôi. Một tấm ảnh không cần lời minh họa.

Như một thông lệ , các bạn từ xa đến đều được PLan tôi tặng một món quà . Và cô bạn Kim Hưng của chúng tôi rất vui và hạnh phúc." Hưng  vẫn trẻ như xưa". Thích quá, Hưng nhỉ?


Chia tay nhau trong lưu luyến với tay xách, nách mang...chúng tôi cùng chúc nhau sức khoẻ để có thể gặp lại nhau trong những lần sắp đến.

Giờ này, bạn Kim Hưng của chúng tôi đã về nhà và những thoáng lâng lâng trong hạnh phúc khi bên nhau sẽ đưa bạn tôi đến một giấc ngủ thật ngon.

Phương Lan HB 9:25PM 10/27/2013

Saturday, October 26, 2013

MỘT CHIỀU GIỮA THU

MỘT CHIỀU GIỮA THU

trong cái nắng hanh vàng của một chiều giữa thu,
từ thật xa kd nghe được tiếng cười nói của cô bạn TV..
nhẹ nhàng như một bài thơ tứ tuyêt...
mình nhắc với nhau bao kỷ niêm...
"...đêm nay Anh chờ đầu đường TúXương..." của VHải
đến TBình kể chuyện mà tới bây giờ TMai vẫn còn " sợ ơi là sợ "*:D La banane !
ThuMai ơi,
đêm qua kd thao thức mãi...
( không phải như 1tháng trước tâm không an, lòng nặng trĩu những âu lo..)
nhưng để tự hỏi ...tại sao.?? tại sao... và tại sao
bao nhiêu năm tháng sau khi "chiến tranh tàn"
mình lạc mất nhau trong lòng Sài Gòn thân yêu,
và khi tìm được nhau thì chao ơi là xa...
bạn mình đó...cười nói vẫn hồn nhiên trong veo như ngày nào..
nhưng rồi ngẩn ngơ vì chưa được thấy lại nhau với những sợi tóc đang thay màu....
cám ơn Thu Mai...đã cho kd một buổi chiều đầy an bình
chúc các bạn cuối tuần thật như y'
kd
mùa thu nơi kd đang tạm dung nè




Friday, October 25, 2013

DVD " TRƯNG VƯƠNG 62-69, MỘT THOÁNG HẠNH PHÚC"

DVD " TRƯNG VƯƠNG 62-69, MỘT THOÁNG HẠNH PHÚC" 



Một thoáng hạnh phúc của chúng tôi , những cô học sinh của trường Nữ Trung học Trưng Vương ngày nào đã được ghi lại trong DVD " Trưng Vương 62-69, một thoáng hạnh phúc " sẽ được phát hành trong những ngày sắp tới.

DVD này được tôi bắt đầu thực hiện từ ngày 13 tháng 4 cho đến buổi tối ngày 15 tháng 10 năm 2013 mói hoàn tất . Những ngày cuối tuần là những ngày được gặp các bạn của tôi ở khắp nơi trên thế giới qua hình ảnh , bỗng thấy cuộc sống của mình phong phú và có ý nghĩa biết bao! Quanh tôi luôn có các bạn ân cần , thương yêu và quan tâm .
 VIệt Hải, Mộng Hòe từ Việt Nam gọi để chia sẻ những niềm vui , nỗi buồn và cuộc sống quanh ta.
Hồng Phúc, Nội , Dần, Minh Hạnh , Xuân Dung hỏi thăm sức khỏe và kể cho nhau nghe những buồn vui của cuộc sống .
Kim Hưng, Kim Anh, Thanh Bình , Thanh Mai, Nga từ San Jose và tôi nói đủ thứ chuyện trên đời , có khi hơn cà tiếng đồng hồ.
Còn trên net thì bao nhiêu là bạn hỏi thăm...Vui, cảm động và hạnh phúc với những ân cần của các bạn, cho nên bao nhiêu vất vả trong khi làm DVD đều tan biến mất.

DVD " Trưng Vương 62-69, một thoáng hạnh phúc" được mở đầu bằng bài hát" Happy New Year" với cuộc hội ngộ đầu năm  của các bạn TV miền Bắc Cali tai nhà bạn Vũ thị Nga và kết thúc với cuộc họp mặt với bạn Phạm thị Hương qua bản nhạc " Trở về mái nhà xưa" trong tiếng kèn saxophone réo rắt .

Để có được một thoáng hạnh phúc khi cầm DVD này trên tay, xin được cám ơn " bờ vai của tôi" đã dạy tôi thật chu đáo ....xin được cám ơn tôi, đã kiên nhẫn từng phút, từng giây mỗi khi gặp khó khăn , xin được cám ơn tất cả các bạn gần xa đã gửi những hình ảnh của các cuộc hội ngộ để DVD của chúng ta thật phong phú. Và lời cám ơn chân thành nhất xin được gửi đến anh Lợi, người bạn của nhà tôi đã vất vả, tốn nhiều công sức để in ra những DVD quý giá này.

Một ngày không xa, DVD " Trưng Vương 62-69, một thoáng hạnh phúc" sẽ đến với các bạn  và nhiều " một thoáng hạnh phúc" sẽ ở lại trong mỗi chúng ta khi xem DVD này.

 PHƯƠNG LAN HB 9:45PM  10/25/2013.

NHỮNG CÁI NHẤT CỦA SÀI GÒN XƯA

NHỮNG CÁI NHẤT CỦA SÀI GÒN XƯA

                                                                      NGÔI TRƯỜNG CỔ NHẤT 




Trường Lê Quý Đôn được xây dựng vào năm 1874, hoàn tất năm 1877 do người Pháp quản lý. Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ), rồi đổi thành Collège Chasseluop Laubat. Năm 1954, trường mang tên Jean Jacques Rousseau. Năm 1967, trường được trả cho người Việt quản lý mang tên Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Từ năm 1975 đến nay đổi tên là trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn. Hơn một thế kỷ qua trường vẫn giữ được kiến trúc ban đầu. 

NHÀ MÁY ĐIỆN XƯA NHẤT 
(góc đại lộ Đông Tây và đường Nguyễn Văn Cừ)

Nhà máy điện Chợ Quán xây dựng năm 1896, máy phát điện chạy bằng hơi nước có 5 lò hơi với 150m2, cung cấp dòng điện 3 pha, công suất chưa tới 120MW. Máy phát điện chính công suất 1000A/h. Hiện nay, nhà máy đã được trang bị hiện đại với 7 máy phát điện, hòa với lưới điện quốc gia cung ứng phần quan trọng cho lưới điện thành phố. Nhà máy toạ lạc tại số 8 Bến Hàm Tử, quận 5.Bây giờ

 
BỆNH VIỆN CỔ NHẤT



Bệnh viện Chợ Quán xây dựng năm 1826 do một số nhà hảo tâm đóng góp, sau đó hiến cho nhà nước. Năm 1954-1957 giao cho Quân đội gọi là Viện bài lao Ngô Quyền. Năm 1974, đổi thành Trung tâm Y tế Hàn Việt có 522 giường. Tháng 9/1975, mang tên Bệnh viện Chợ Quán. Đến ngày 5/9/1989 chuyển thành Trung tâm Bệnh Nhiệt đới. Hiện nay có 610 Cán bộ-Công nhân viên và 550 giường bệnh. 

NHÀ HÁT CỔ NHẤT
 


Nhà hát thành phố do kiến trúc sư người Pháp xây dựng hoàn tất vào ngày 17/1/1900. Các phù điêu bên trong được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp cuối thế kỷ XIX. Nhà hát là nơi trình diễn ca nhạc kịch cho Pháp kiều xem. Năm 1956, Nhà hát được dùng làm trụ sở Hạ nghị viện chế độ cũ; tháng 5/1975 trở thành Nhà hát thành phố với 750 chỗ ngồi. Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn–TP.HCM toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài Nhà hát được phục chế lại như nguyên mẫu ban đầu. 

KHÁCH SẠN CỔ NHẤT


Khách sạn Continental tọa lạc tại 132-134 Đồng Khởi, xây dựng năm 1880 do Kiến trúc sư người Pháp thiết kế, tên khách sạn có ngay từ những ngày đầu. Sau ngày giải phóng miền Nam đổi thành Hải Âu. Đến năm 1989, khách sạn được nâng cấp, chỉnh trang và lấy lại tên cũ Continental có diện tích 3430m2, cao 3 tầng, nơi đây đã từng đón tiếp các vị tổng thống, thống đốc, nhà văn, người mẫu nổi tiếng. Ngày nay, khách sạn Continental là một trong những khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế góp phần cho ngành du lịch TP.HCM ngày càng phát triển. 

NHÀ THỜ CỔ NHẤT

Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc tại số 20 Trần Bình Trọng, P.2, Q.5 xây dựng từ năm 1674 là nhà thờ cổ nhất tại TP.HCM và cổ nhất ở miền Nam. Ngôi thánh đường nằm ở vị trí trung tâm, có kiến trúc kiểu phương Tây, lợp ngói đỏ, có thể chứa khoảng 1000 người. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, Họ đạo Chợ Quán tích cực tham gia công tác xã hội giúp đỡ người nghèo. Trải qua hơn 3 thế kỷ Nhà thờ Chợ Quán đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay, nơi đây có phòng khám và phát thuốc từ thiện dưới quyền quản lý của Hội Chữ thập đỏ Quận 5

NGÔI ĐÌNH CỔ NHẤT

Một trong những ngôi đình cổ nhất của đất Gia Định xưa và xưa nhất Nam Bộ là đình Thông Tây Hội, xây dựng vào khoảng năm 1679, là chứng tích còn nguyên vẹn nhất của thời kỳ dân Ngũ Quảng kéo vào khai khẩn vùng Gò đất có nhiều cây Vắp (từ đó trở thành tên địa phương là Gò Vấp). Đình lúc đầu là của thôn Hạnh Thông–thôn khởi nguyên của Gò Vấp–sau đổi thành Thông Tây Hội (do sự sáp nhập của thôn Hạnh Thông Tây (thôn Mới) và thôn An Hội). Đình Thông Tây Hội có vị Thành Hoàng rất độc đáo. Hai vị thần thờ ở đình là hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, do tranh ngôi với thái tử Vũ Đức nên bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam tổ quốc và trở thành “Thủy tổ khai hoang” trong lịch sử Việt Nam; hai vị thần đó là: Đông Chinh Vương và Dục Thánh Vương. Ngôi đình còn giữ được khá nguyên vẹn về quy mô và kiến trúc, kết cấu, với những chạm khắc đặc trưng Nam bộ. Đình Thông Tây Hội thuộc P.11, Gò Vấp. 

NHÀ VĂN HÓA CỔ NHẤT 

Cung Văn hóa Lao Động. Năm 1866, với tên gọi Cercle Sportif Saigonnais được xây dựng làm sân thể thao của quan chức người Pháp với những hồ bơi, sân quần vợt, phòng đấu kiếm và phòng nhảy đầm. Thời Mỹ chiếm đóng, sân chơi được mở rộng hơn phục vụ cho cả giới quý tộc.

Tháng 11/1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn–Gia Định trao toàn bộ cơ ngơi này cho Liên đoàn Lao động Thành phố để cải tạo xây dựng thành nơi tổ chức các hoạt động văn hóa thể thao và vui chơi giải trí cho công nhân lao động, lấy tên là Câu lạc bộ Lao Động, sau đổi thành Nhà văn hóa Lao Động, và rồi là Cung Văn hóa Lao Động. Diện tích 2,8ha, với 132 năm hình thành và phát triển, Cung Văn hóa Lao Động là Nhà văn hóa cổ và lớn nhất của TP.HCM. 

CÔNG VIÊN LÂU ĐỜI NHẤT 


Thảo Cầm Viên do người Pháp xây dựng năm 1864, nhà thực vật học nổi tiếng người Pháp Louis Pierre làm giám đốc đầu tiên. Mục đích xây dựng Thảo Cầm Viên để ươm cây giống trồng dọc các đại lộ Sài Gòn, đồng thời là nơi nuôi trồng những động thực vật vùng nhiệt đới mà các Thảo Cầm Viên của Pháp chưa có. Năm 1865, chính phủ Nhật đã hỗ trợ khoảng 900 giống cây quý như: Chizgnamat, Goyamtz, Acamatz, Coramatz, Kayanoki, Kayamaki, Enoki, Maiki, Asoumaro, Sengni, Momi, Cashi, Kiaki, Inoki… Động vật của Thảo Cầm Viên khá phong phú như: gà lôi, sếu, cu gáy, hồng hoàng, công, hưu, nai, cọp, khỉ, chồn hương, tắc kè, rùa, cọp xám, đóm đen, gà lôi xanh, chim cú lợn… Đến năm 1989, Thảo Cầm Viên được cải tạo, mở rộng và nhập thêm nhiều giống thú mới, trồng thêm cây quý. Hiện nay, có 600 đầu thú thuộc 120 loài, 1823 cây gỗ thuộc 260 loài và nhiều loại cây kiểng quý trên diện tích 21.352m2. Năm 1990, Thảo Cầm Viên là thành viên chính thức của Hiệp hội các vườn thú Đông Nam Á. Thảo Cầm Viên đã tròn 134 tuổi, số lượng động thực vật ngày càng tăng, nơi đây đã gắn bó với từng bước đi lên của thành phố và là một trong những công viên khoa học lớn nhất Đông Dương. 
Tượng ông Louis Pierre. giám đốc đầu tiên của Thảo Cầm Viên

NGÔI NHÀ XƯA NHẤT


Ngôi nhà có tuổi thọ lâu đời nhất còn hiện diện tại TP.HCM nằm trong khuôn viên Toà Tổng Giám Mục TP.HCM-180 Nguyễn Đình Chiểu, P.6, Q.3. Năm 1790, Vua Gia Long cho cất ngôi nhà này ở gần Rạch Thị Nghè làm nơi ở cho Linh Mục Bá Đa Lộc và làm nơi dạy học cho Hoàng tử Cảnh. Ngôi nhà được xây dựng bên bờ sông Thị Nghè trong địa phận Thảo Cầm Viên bây giờ. Năm 1799, Bá Đa Lộc chết, ngôi nhà được giao cho linh mục khác. Từ năm 1811 đến năm 1864 ngôi nhà bị đóng cửa vì chính sách cấm đạo của triều đình Huế. Sau khi vua Tự Đức ký hòa ước với Pháp, ngôi nhà được trao lại cho Tòa Giám Mục và được di chuyển về vị trí đường Alexandre de Rhodes hiện nay. Sau đó năm 1900 Tòa Giám Mục được xây cất tại 180 đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) thì ngôi nhà gỗ lại được dời về đây làm nhà thờ của Tòa Giám Mục. Ngôi nhà 3 gian 2 chái, lợp ngói âm dương, sườn, cột bằng gỗ, khung cửa và các khung thờ đều được chạm trỗ công phu hình hoa, lá, chim thú, hoa văn. Trong các di vật còn lại của ngôi nhà có một di vật có giá trị lịch sử lớn, đó là đôi liễn gỗ có tám chữ triện khảm xà cừ là tám chữ vua Gia Long ban tặng giám mục Đá Ba Lộc, một bên là “Tứ Kỳ Thịnh Hy”, một bên là “Thần Chi Cách Tư”. Ngôi nhà được tu sửa vào năm 1980, cách tu sửa có tính chất vá víu, cốt giữ lại những gì có thể giữ được. Trải qua hai thế kỷ ngôi nhà không giữ được nguyên trạng nhưng đây là một di tích kiến trúc mang dấu ấn lịch sử, tôn giáo và văn hóa nghệ thuật. Đây là một tài sản có giá trị mà các bậc tiền nhân đã để lại cho chúng ta, không chỉ là truyền thống- bản sắc dân tộc mà còn là bộ mặt quá khứ mang tính văn hóa kiến trúc, một khía cạnh văn minh tại một vùng đất mới mọc lên từ đầm lầy, kênh rạch. 

NGÔI NHÀ CỔ NHẤT



Ngôi chùa có cảnh trí đẹp nhưng nằm ở địa điểm không tiện đi lại nên được ít người biết đến là chùa Huê Nghiêm, tọa lạc ở 20/8 Đặng Văn Bi, Thủ Đức. Chùa được thành lập năm 1721 do Tổ Thiệt Thùy (Tánh Tường) khai sáng. Tên chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Đây là chùa cổ xưa nhất trong các chùa ở TP. HCM nên còn gọi là Huê Nghiêm Cổ Tự. Những ngày đầu là một ngôi chùa nhỏ được xây cất trên vùng đất thấp cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100m. Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên pháp danh Liễu Đạo hiến đất để xây lại ngôi chùa rộng rãi khang trang như hiện nay. Qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1960, 1969, 1990 mặt tiền chùa ngày nay mang dáng vẻ kiến trúc của chùa hiện đại nhưng các gian phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền, mái gian mặt tiền được cấu trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần về phía trên. Các đường gờ mái chạy dài xuống cuối đầu đăng đều trang trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng, giữa là hình bánh xe luân pháp, đặt trên hoa sen. Mái lợp ngói ống màu đỏ, đường viền mái ngói màu xanh. Vườn chùa có nhiều cây xanh bóng mát, có 9 ngôi tháp cổ với nhiều kiểu dáng khác nhau như những cánh sen vươn lên. Những hàng cột gỗ trong chùa được khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán màu đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ “long ẩn vân” dùng trang trí. Chùa Huê Nghiêm là một di tích Phật giáo quan trọng, là nơi dừng chân, sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm Phật pháp, có đạo hạnh và có đạo đức. Chùa cũng là bằng chứng về trình độ kiến trúc và phong tục tập quán của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền văn minh trên vùng đất hoang sơ. 

ĐƯỜNG SẮT ĐẦU TIÊN Ở THÀNH PHỐ


Tuyến đường sắt đầu tiên ở nước ta là đoạn đừơng sắt Sài Gòn–Mỹ Tho dài 71km, xây dựng năm 1881. Ga chính trước chợ Bến Thành, văn phòng đường sắt là tòa nhà 2 tầng chiếm cả khu đất bao bọc bởi 3 đường Hàm Nghi–Huỳnh Thúc Kháng–Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nay là Xí nghiệp Liên hợp đướng sắt khu vực 3. Xe lửa chạy bằng máy hơi nước phải dùng than củi đốt nồi súp-de nên xe chạy khá chậm. Vì không cạnh tranh nổi với xe đò trong việc chuyên chở hàng hóa và hành khách, đường xe lửa Sài Gòn–Mỹ Tho ngưng hoạt động từ lâu. Sau năm 1975, Ga xe lửa Sài Gòn được dời về Ga Hoà Hưng. Trên nền Ga Sài Gòn cũ ngày 8/8/1998, khởi công xây dựng Trung Tâm Văn Hoá Thương Mại Sài Gòn. 

NGƯỜI VIỆT ĐẦU TIÊN VIẾT SỬ VIỆT NAM BẰNG TIẾNG PHÁP


Ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Năm 1859, Pháo hạm Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng và thành cũ Gia Định, triều đình nhà Nguyễn bắt buộc chấp nhận mở cửa đất nước cho tư bản thực dân Pháp xâm nhập. Trong giai đoạn lịch sử mới, người Việt Nam từng bước tiếp xúc với ngôn ngữ và văn minh mới. Trương Vĩnh Ký là một trong những người sớm tiếp xúc và hấp thụ ngôn ngữ văn hoá phương Tây đã trở thành học giả có nhiều sáng tác nhất bằng cả tiếng Pháp và tiếng Hán–Việt. Ông là người Việt Nam đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp. Cuốn “Giáo trình lịch sử An Nam” đã được xuất bản gồm hai tập dày 462 trang. Đây thực sự là một công trình bác học biên soạn công phu dưới ánh sáng của một phương pháp luận khoa học tiến bộ so với đương thời. 
TỜ BÁO BẰNG CHỮ QUỐC NGỮ ĐẦU TIÊN



Tờ “Gia Định Báo” là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở nước ta ra đời tháng 4/1865. Tờ báo đăng những thông tin nghị định của nhà nước và những tin kinh tế xã hội, lời bàn về thời cuộc, luân lý, lịch sử. Báo ra hằng tháng. Sau 4 năm phát hành, chính quyền thuộc địa cho phép báo phát hành hàng tuần bằng quyết định số 51 ngày 18/3/1869. 

TỜ BÁO ĐẦU TIÊN CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM


Ngày 1/2/1918 tờ báo chuyên về Phụ nữ đầu tiên ra đời là tờ “Nữ Giới Chung” nhằm nâng cao trí thức, khuyến khích công nông thương, đề cao người Phụ nữ trong xã hội, chú trọng đến việc dạy đức hạnh, nữ công, phê phán những ràng buộc đối với Phụ nữ, đánh đổ mê tính dị đoan, động viên Phụ nữ quan tâm đến việc “Nữ quyền”. Muốn có vị trí ngang hàng với nam giới ngoài việc tề gia nôi trợ phải am hiểu “tình trong thế ngoài”. Chủ bút tờ báo là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, vốn có lòng yêu nước, yêu thương đồng bào như thân phụ nên khi làm báo Bà có ý muốn làm diễn đàn để tỉnh thức lòng yêu nước trong dân chúng. Tuy chỉ tồn tại được hơn 6 tháng nhưng “Nữ Giới Chung” cũng đã gióng lên một hồi chuông nữ quyền còn vang mãi đến ngày nay. 

CUỐN TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT ĐẦU TIÊN


“Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” là cuốn từ điển tiếng Việt quốc ngữ Latinh của Huỳnh Tịnh Của gồm hai tập: Tập I xuất bản năm 1895, tập II xuất bản 1896 tại Sài Gòn. Bộ từ điển chứa nhiều từ ngữ xưa, thành ngữ, tục ngữ, từ ngữ về thảo mộc, cầm thú của Việt Nam và của miền Nam. Bộ từ điển này trở thành Từ điển Bách khoa toàn thư đầu tiên về Nam Bộ. 

NGƯỜI KIẾN TRÚC VIỆT NAM ĐẦU TIÊN


Ông Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) người làng Bùi Chu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Gia đình ông theo đạo Thiên Chúa, ông giỏi chữ Nho, thông hiểu Ngũ Kinh Tứ Thư, học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp với các giáo sĩ. Ông được giám mục Gauthier đưa sang Paris năm 1858. Ông am hiểu chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, pháp luật. Năm 1861 ông trở về nước, tàu ghé Sài Gòn thì nơi đây đã đổi chủ, ông buộc phải làm phiên dịch cho người Pháp. Trong lúc ở Sài Gòn, ông đã đứng ra xây cất tu viện dòng thánh Phao lô (số 4 Tôn Đức Thắng). Đây là công trình xây dựng theo kiến trúc Châu Âu do người Việt Nam thực hiện tại Sài Gòn. Công trình được xây dựng từ tháng 9/1862 đến 18/7/1864 hoàn thành gồm nhà nguyện với ngọn tháp nổi bật trên cao xây theo kiểu Gôtic, một tu viện, một nhà nuôi trẻ mồ côi và một tháp chuông. Công trình xây dựng này là kết quả nghiên cứu kiến trúc châu Âu của Nguyễn Trường Tộ khi ông ở Hồng Kông. Qua nhiều lần sửa chữa trùng tu, ngày nay tu viện thánh Phao Lô vẫn giữ được đường nét kiến trúc xưa, chứng tỏ tài năng kiến trúc của Nguyễn Trường Tộ không thua gì các kiến trúc sư người Pháp. 


NGƯỜI VIỆT NAM ĐẦU TIÊN VẼ BẢN ĐỒ ĐỊA LÝ VÀ ĐỒ HỌA SÀI GÒN THEO PHƯƠNG PHÁP PHƯƠNG TÂY

Ông Trần Văn Học, sinh quán ở Bình Dương, giỏi Quốc ngữ, Latinh và tiếng Tây Dương, được giới thiệu làm thông ngôn cho Nguyễn Ánh. Ông phụ trách việc dịch sách kỹ thuật phương Tây, đồng thời kiêm việc chế tạo hỏa xa, địa lôi và các loại binh khí. Năm 1790, Nguyễn Ánh xây thành Bát Quái. Trần Văn Học phụ trách “phác họa đường xá và phân khu phố phường”. Ông rất có tài vẽ địa đồ, họa đồ và kỹ thuật bản đồ như: tỉ lệ, trắc địa, và vẽ gần như chính xác các thành trì và công trình. Ông được coi người đầu tiên vẽ bản đồ Sài Gòn - Gia Định theo phương pháp phương Tây. 

NHÀ MÁY NƯỚC SÀI GÒN CŨ
HÌNH BÂY GIỜ

Phương Lan sưu tầm trên net

Sunday, October 20, 2013

MỘT THOÁNG HẠNH PHÚC


 MỘT THOÁNG HẠNH PHÚC

Một ngày chủ nhật đến với tôi thật êm đềm sau một giấc ngủ thật ngon .
Sáng nay, dường như mùa thu đang len lén đến, vài vạt nắng nhẹ, yếu ớt thoáng qua rất nhanh, đến rồi đi , để lại một bầu trời xam xám với chút gió thu lành lạnh. Mùa hạ bâng khuâng đi rồi nhường cho nàng thu nhẹ nhàng bước đến.

Một ly sữa cafe, một mẩu bánh mì trong một thoáng hạnh phúc khi nghĩ về những người thân yêu. Gia đình, bạn bè, học trò là những thương yêu của tôi.
Một thoáng hạnh phúc, một xúc cảm  ngập tràn trong lòng khi đọc được vài dòng chữ của cô bạn thân từ quê nhà. Nước mắt tràn mi...một thoáng hạnh phúc...

Một thoáng hạnh phúc khi nghe giong nói của các bạn tôi từ khắp nơi...kể nhau nghe những vui buồn của cuộc sống , kể về những chuyến đi chơi , tâm sự về những chông gai của cuộc đời, thăm hỏi về cuộc sống của nhau ,chia sẻ những nỗi niềm, những hẹn hò cho một chuyến thăm nhau sắp tới , đôi khi chỉ là vài câu nhưng chan chứa biết bao quan tâm của bạn bè.

Một thoáng hạnh phúc khi mỗi ngày đọc được những lá thư , những bài học có ý nghĩa cho cuộc sống của bạn bè, của học trò trên trang net... 

Một thoáng hạnh phúc từ " cậu học trò 2 điểm" đến " bài văn 30 năm sau " như những món quà nho nhỏ nhưng vô giá mà không phải ai cũng có được.

Một thoáng hạnh phúc khi được ngồi ăn chung một bữa cơm với bạn , thân mật và gần gũi biết bao. Một thoáng hạnh phúc khi nghe lời dặn dò của bạn...nhớ lái xe cẩn thận nhé. 

Nghe được giọng nói của bà chị, của những cô em với những ân cần, yêu thương của tình chị em , tình gia đình là những thoáng hạnh phúc của tôi. 

Hạnh phúc đang quanh tôi, hạnh phúc  đầy ắp với những thương yêu. Và tôi đang mỉm cười để đón nhận.

Một thoáng hạnh phúc khi mỗi ngày ngắm nhìn hình ảnh của các bạn tôi trong những buổi hội ngộ, những khuôn mặt ngời lên niềm hạnh phúc khi bên nhau , những nụ cười thật hồn nhiên như trẻ thơ . Cám ơn các bạn đã cho tôi nhiều "một thoáng hạnh phúc " đó.

Một thoáng hạnh phúc những khi sắp xếp những tấm hình các bạn gửi từ khắp nơi trong những lần gặp gỡ để ghi lại những kỷ niệm của tình bạn trong một cuốn DVD . Nhiều hình ảnh, nhiều lần gặp gỡ quá, cho nên không thể nào không có những thiếu sót, mong các bạn thông cảm để  tôi luôn có một thoáng hạnh phúc. Một thoáng hạnh phúc khi chọn lựa những bản nhạc , những bài hát cho một DVD . Sau nhiều trục trặc, sau nhiều đêm thức khuya đến 2 giờ sáng , để rồi nhiều thoáng hạnh phúc  đã tràn ngập trong lòng khi đã hoàn tất được cuốn DVD sắp tới.

Một thoáng hạnh phúc khi xem lại thành quả của mình, ngắm nhìn bạn bè trên màn ảnh của TV .

Ngoài kia ,những tia  nắng  vàng rực rỡ trong gió thu man mát, vài nụ quỳnh vàng xinh xắn , vài chùm hoa vàng  trong khu vườn be bé của tôi cũng là một thoáng hạnh phúc.

Ừ nhỉ,  tựa đề cho cuốn DVD mới " Trưng Vương 62-69, một thoáng hạnh phúc " thật có ý nghĩa biết bao!

" Trưng Vương 62-69, một thoáng hạnh phúc" là một món quà nhỏ xin được trao tặng đến các bạn như một lời tạ ơn chân thành của tôi trong mùa lễ Tạ ơn năm nay.


Phương Lan (HB )
11:00AM 10/20/2013



Sunday, October 13, 2013

CHUYỆN MỘT BÀI CA DAO CỔ - Phan văn Cho

CHUYỆN MỘT BÀI CA DAO CỔ

"Đi chợ tính tiền" là một bài ca dao lục bát. Bài đã được in làm bài Học thuộc lòng cho học sinh lớp "sơ đẳng" trong sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư năm 1948. Bài thơ kể chuyện một người phụ nữ đi chợ về, phải trình bày minh bạch, rõ ràng việc chi tiêu với chồng.
"Đi chợ tính tiền"
Ngày xưa khi học bài này thầy giáo chỉ nêu đại ý như rứa, đồng thời nêu bật tính đảm đang, khéo vén của người phụ nữ xưa..., sau đó yêu cầu học sinh học thuộc. Thầy không giảng về bài toán ẩn trong bài thơ, có lẽ vì thời thế đã khác (Khoảng năm 1958, chưa được vào trường công lập, người viết học với Ông giáo... ở khoảng giữa cầu An Cựu và lăng Vạn Vạn, không biết có phải là thân sinh của nhà văn Hải Triều không?) đồng tiền cũng đã đổi thay, hoặc giải bài toán chắc chi những học trò nhỏ hiểu được.
Đã hơn năm mươi năm, bây giờ người học trò xưa đang ngồi ôm tóc trắng... một ngày mưa ngồi buồn chợt nhớ thầy đồ nơi xóm cũ ngày xưa chừ không còn, nhưng bài thơ vẫn còn đọng mãi trong đầu của bài Học thuộc lòng thửa ấy. 

Bèn tìm giấy giải thử.Ngay câu thơ đầu tiên đã gặp ngay vấn nạn."Một quan tiền tốt mang đi". Một quan là bao nhiêu ?Quan là đồng tiền cổ, những người muôn năm cũ giờ không còn, biết hỏi ai đây? Chợt nghe vang vang trong đầu một bài nhạc của nhạc sĩ Văn Phụng:

Một quan là sáu trăm đồng.
Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi.
(Thơ của Nguyễn Bính).

Vận dụng cả 4 phép tính cộng trừ nhân chia,đảo xuôi ngược,lên xuống... mãi vẫn không đủ 600 đồng cho một quan tiền!

Lại phải đi tìm trong lịch sử. Trong một ngàn năm Bắc thuộc, dân Việt không có đồng tiền riêng. Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên Hoàng, niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo. Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt. Từ đó tiếp đến những triều đại sau đều theo .

Lại phải đi tìm trong lịch sử. Trong một ngàn năm Bắc thuộc, dân Việt không có đồng tiền riêng. Mãi đến sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, dân Việt vẫn còn dùng đến đồng tiền của phương Bắc. Đến năm 968, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế với đế hiệu Đinh Tiên Hoàng, niên hiệu Thái Bình. Năm 970 nhà vua đã cho đúc những đồng tiền Thái Bình Hưng Bảo. Đây chính là những đồng tiền đầu tiên của người Việt. Từ đó tiếp đến những triều đại sau đều theo .

Đơn vị để tính tiền xưa gồm có : quan, tiền, đồng. Mỗi quan có giá trị là 10 tiền, mỗi tiền bằng bao nhiêu đồng tùy theo quy định của mỗi thời đại. Theo sử sách giá trị đồng tiền các thời đại như sau:

1/ Năm 1225, vua Trần Thái Tông định phép dùng tiền. 1 quan bằng 10 tiền. 1 tiền bằng 70 đồng.

2/ Năm 1428 vua Lê Thái Tổ cho đúc tiền Thuận Thiên. 1 quan bằng 10 tiền. 1 tiền bằng 50 đồng.3/ Năm 1439, vua Lê Thái Tông quy định 1 quan bằng 10 tiền, 1 tiền bằng 60 đồng.
Như vậy 1 quan=10 tiền=600 đồng.

Từ đó các triều đại về sau, mỗi khi đúc một loại tiền mới đều theo tỷ lệ này, cho đến cuối triều Nguyễn năm 1945. Chỉ có tên đồng tiền là thay đổi theo tên hiệu.

Năm 1905 , chính quyền bảo hộ Bắc kỳ cho phát hành loại tiền đúc bằng hợp kim kẽm. Loại tiền này mặt trước in chữ Pháp, mặt sau ghi chữ Hán, có giá trị tương đương các loại tiền đồng như Gia Long Thông Bảo, Minh Mệnh Thông Bảo,Thiệu Trị Thông Bảo và Tự Đức Thông Bảo.

Trong những đời vua sau của nhà Nguyễn còn có thêm hai đồng tiền khác là Khải Định Thông Bảo và Bảo Đại Thông Bảo,hai loại tiền này không đúc như những đồng tiền xưa mà được dập bằng máy dập nhập từ nước Pháp.

Đến đây chắc chắn là bài toán ẩn bên trong bài ca dao đã giải được. Ghi lại như sau, bên phải là các phép tính đã giải.


ĐI CHỢ TÍNH TIỀN

Trong sách QVGKT bên dưới bài học thuộc lòng này có 3 từ giải nghĩa,ghi nguyên văn như sau :"GIẢI NGHĨA. Tiền tốt = tiền tiêu được. Vàng = đồ làm bằng giấy cúng rồi đốt đi. Hồ nghi = ngờ vực, không biết rõ".

Những giải nghĩa này chỉ để giải thích cho lớp học trò tóc còn để chỏm,dễ hiểu, dễ nhớ. Đi chợ tất phải đem theo tiền, tiền phải có giá trị trong mua bán... là chuyện đương nhiên. 

Nhưng sao gọi là tiền tốt? Một bài cao dao được lưu truyền,được in trong sách giáo khoa từ lúc ra đời (Bản in đầu tiên năm 1927) đến lúc cải tiến thay đổi, không lẽ vì bí vần mà viết vụng thế sao! Thế là người viết phải đi tìm tiếp.

Có một giai thoại trong văn học về Bà Chúa thơ Nôm. Chuyện kể rằng Hồ Xuân Hương thiếu tiền bèn hỏi mượn của Chiêu Hổ 5 quan để tiêu tạm. Chiêu Hổ gởi tiền đến,đếm hoài vẫn chỉ thấy có 3 quan. Nữ sĩ bèn làm bài thơ trách người cho mượn tiền:

Sao nói rằng năm chỉ có ba.
Trách người quân tử hẹn sai ra.
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt.
Nhớ hái cho xin nắm lá đa.

Chiêu Hổ họa lại:

Rằng gián thì năm, quý có ba.
Bởi người thục nữ tính không ra.
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt.
Cho cả cành đa lẫn củ đa.
Trong bài họa của Chiêu Hổ có chữ gián và quý. Đây là cơ sở dẫn người viết đi tìm tiếp. Đã có công tất ... chồng không phụ, kết quả đã tìm được:

Khoảng thế kỷ 18,dưới triều vua Minh Mạng có hai loại tiền lưu hành song song. Đó là tiền quý và tiền gián, tỷ lệ như sau: 1 quan quý = 600 đồng. 1 quan gián chỉ bằng 360 đồng.

Khi hỏi mượn tiền, Hồ Xuân Hương chỉ nói mượn 5 quan,không nói là quan gì. Gặp lúc Chiêu Hổ chắc cũng đang thiếu nên chỉ cho mượn số tiền thấp xuống, nhưng vẫn đủ 5 quan:Quan quý : 3x600 = 1800 đồng
1800 : 360 = 5 quan gián

Giá trị của các loại tiền xưa như thế nào? Đây là những số liệu về lương tiền dưới triều vua Minh Mạng.

-Quan Nhất Phẩm lãnh mỗi năm 400 quan, 300 phương gạo, 70 quan tiền Xuân Phục, tức tiền áo quần.

-Quan Chánh ngũ phẩm,hàng tri phủ mỗi năm lương 40 quan, 43 phương gạo, 9 quan tiền Xuân Phục.

-Lính, thơ lại,phục dịch ... lương mỗi tháng 1 quan, tiền, 1 phương gạo.

Đồng quan ngày xưa nó to thế. Chẳng trách người ta bỏ ... quan ra để mua phẩm hàm, chức tước... để được làm quan! Chẳng trách người phụ nữ " thời xưa" (tên khác của bài thơ Trăng sáng vườn chè) quên cả thanh xuân, gác tạm những ẩn ức, dồn nén để một ngày chồng vinh qui về làng... cùng nhau trải trọn trong một đêm trăng!

Qua những số liệu vừa tìm được, ta có thể thấy rõ bài ca dao "Đi chợ tính tiền" xuất hiện sớm nhất phải từ thời Minh Mạng. Bởi từ lúc này mới có "Một quan tiền TỐT" mang đi. Tiền tốt chính là tiền quý, phân biệt với tiền gián có giá trị thấp hơn. Cũng thấy được, người phụ nữ trong một buổi chợ quê đã tiêu số tiền bằng lương tháng một người lính. Nhà nàng chắc phải có chuyện quan hôn, kỵ giỗ chi đây!

Thật thú vị, để giải bài toán ẩn bên trong bài ca dao, đã phải đi loanh quanh, lòng vòng. Gặp những bài thơ hay, giai thoại đẹp, biết thêm vài điều về lịch sử... Nếu không có Internet chắc gì người viết đã giải được bài toán ẩn bên trong bài ca dao cổ? Chỉ nghĩ đến kho sách phải lục tìm, những thư viện phải đi đến ... đã thấy chồn chân chẳng muốn leo !


PHANVANCHO
http://khoa4suphamhue.vnweblogs.com/post/32614/411054