THƯ NGỎ

WELCOME TO TV6269

Các bạn thân mến,

Năm 1962 chúng mình bước vào Trưng Vương bằng những bước chân ngập ngừng của những cô bé lớp Đệ Thất ngây thơ. Rồi 7 năm học trôi qua những kỷ niệm với bạn bè, với Thầy Cô, với lớp học, với ngôi trường yêu dấu đã để lại trong ký ức của chúng mình tình bạn thân thiết và những kỷ niệm êm đềm, mơ mộng của một thời áo trắng TV.

Ngày nay tuy ở khắp mọi nơi, chúng mình đã tìm gặp lại nhau. Xin chào mừng tất cả các bạn và ước mong qua trang Blog Trưng vương 62-69 này sẽ là nơi gặp gỡ thân ái để TV6269 cùng ra chơi, vui đùa như ngày xưa trong sân trường yêu dấu.

TV6269







Tuesday, August 26, 2014

The LOTUS andthe STORM Nguyễn Mạnh Trinh

Nguyễn Mạnh Trinh
bia_the_lotus_and_the_storm
Năm 1997 là một thời điểm quan trọng của văn chương người Mỹ gốc Việt khi nhà xuất bản Viking cho in và phát hành tác phẩm thứ nhất của nhà văn Lan Cao – The Monkey Bridge (Cầu Khỉ). Tiểu thuyết này viết về sự phân nhánh của chiến tranh Việt Nam và đời sống của một cộng đồng lưu vong, được tạo dựng với nhiều tỉnh thức đầy nỗ lực với dư luận Hoa Kỳ. Ðây cũng là một tác phẩm đầu tiên được xuất bản được báo chí của dòng chính nhắc đến về những người cầm bút người Mỹ gốc Việt. Tuy nhiên với báo chí xuất bản Việt ngữ thì tác phẩm và tên tuổi của cô còn hơi xa lạ. The Monkey Bridge được báo chí dòng chính khen tặng nhiệt liệt. Thí dụ như trong bài điểm sách của Michiko Kakutani trên New York Times đã viết tác phẩm này gây thật nhiều ấn tượng cho độc giả có thể so sánh được với những tác phẩm thời danh nổi tiếng của Salman Sushdie và Bharati Mukherjee…
Năm nay, nhà xuất bản Vikings lại cho trình diện tác phẩm thứ hai của Lan Cao “The Lotus and The Storm”, một câu chuyện của một gia đình đã sinh sống ở một nơi chốn không thể rời bỏ với nhiều chuyển biến từ những sự kiện bi thảm sau khi chế độ Miền Nam ở Sài Gòn bị sụp đổ. Ðầy tính sử thi trong mục đích diễn tả một chân dung người lính chiến oai hùng của quân lực Miền Nam thuở xa xưa nay thành một ông già yếu đuối ốm yếu nằm trên giường trong căn nhà nhỏ của mình mà hồi tưởng thời còn xông xáo chiến trường. Tác giả làm nổi bật được những trái ngược của cuộc đời, giữa lòng trung tín và sự phản bội, giữa lòng yêu thương và sự nuối tiếc, giữa chuyện muốn quên và điều phải nhớ…
Một nửa thế kỷ sau khi bắt đầu, chiến tranh Việt Nam đã được lưu dấu vết không nhòa trong tâm thức những người Hoa Kỳ. Lan Cao với một tiểu thuyết đầu tay có chất cổ điển đã được biết đến rộng rãi “bởi vì đã nối liền được hai thực thể đối nghịch nhau nhưng lại phải quan hệ với nhau là Hoa Kỳ và Việt Nam” (như nhận định của Isabel Allende). Với tác phẩm thứ hai và cũng là tiểu thuyết mới nhất, tác giả mang độc giả trở lại một cuộc chiến và làm nổi bật những dữ kiện mà lịch sử ở thế kỷ hai mươi chú tâm đến. Ðời sống của một gia đình người Mỹ gốc Việt qua bao nhiêu biến chuyển đã được kể lại và mô tả một cách gián tiếp những hậu quả của chiến tranh một cách đầy nhân bản và hướng thượng.
Chân dung của người cha, một sĩ quan tư lệnh lữ đoàn nhảy dù của quân đội Miền Nam đã phải rời bỏ quê cha đất tổ. Người con gái tên Mai cũng chia sẻ thân phận lưu lạc với cha. Trong thời kỳ chiến tranh trong đời sống họ có những quan hệ thân tình với hai chiến binh Hoa Kỳ. Một là James một sĩ quan và một Cliff là cố vấn quân sự. Bốn chục năm sau, hai cha con Minh và Mai sinh sống ở vùng ngoại ô Virginia với thân phận của người tị nạn. Mai đã tự mình tìm kiếm ra một loạt những sự thật đau xót về những gì đã xảy ra cho gia đình cô trong những năm qua. Còn Minh thì đã phản ánh cuộc đời lính trận của mình với đầy đủ những tính chất của tình yêu thương và trò bội phản đã nặng chĩu trong tâm kể từ khi mất nước năm 1975.
lan_cao
Nhà văn Lan Cao

Lan Cao sinh trưởng ở thành phố Sài Gòn và cư ngụ trong một biệt thự kín cổng cao tường của vùng Chợ lớn. Cô là con gái của đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng QLVNCH. Có lẽ, chân dung những nhân vật chính của cô có nhiều nét giống với vóc dáng của vị tướng này. Khi quân Cộng sản sắp chiếm được Miền Nam, cô rời khỏi Việt Nam và đến cư ngụ tại Avon, tiểu bang Connecticut với một người bạn thân tín của gia đình là một đại tá quân đội Hoa Ky sau thăng cấp lên trung tướng. Sau khi cha mẹ cô sang định cư ở Hoa Kỳ thì đoàn tụ lại cả gia đình. Lan Cao tốt nghiệp cử nhân ngành chính trị học từ Mount Holyoke College năm 1983 và sau đó tốt nghiệp tiến sĩ luật tại Yale Law School và làm việc với công việc của một luật sư tại các tổ hợp luật nổi tiếng tại New York như Paul, Weiss, Rifkin, Wharton & Garrison. Cô cũng làm việc với thẩm phán liên bang, Judge Constance Baker Motley của Southern District of New York, là người phụ nữ da màu đầu tiên đã tranh luận về một vụ án trước Tòa Thượng Thẩm Liên Bang ( trong Meredith vs Fiar, nơi mà bà đã thắng trong việc James Meredith cố gắng trở thành một sinh viên da màu đầu tiên của trường University of Mississipi năm 1962). Lan Cao là một luật gia chuyên ngành về luật quốc tế, luật giao dịch, và phát triển kinh tế. Hiện là giáo sư tại Chapman Law School và hiện sinh sống và cư ngụ tại Nam California.
The Lotus and The Storm là một cuốn tiểu thuyết chiến tranh và mô tả những vết thương gây ra từ cuộc chiến. Ở một tầm nhìn căn bản, là một cuốn biên niên sử ghi chép lại một cuộc sụp đổ của một xứ sở với những âm mưu chính trị và sự tàn phá của chém giết mà sự điều khiển và chỉ đạo chiến tranh chủ động từ nước ngoài. Nhưng ở một tầm vóc nhân bản khác, là một câu chuyện thân thương sâu sắc giữa tình yêu và niềm khát khao mong đợi, giữa dối trá và phản bội, giữa đau buồn và cuồng dại. Nhưng, ở tổng quan tất cả, là sự mất mát to lớn của cả một đất nước với dấu vết sâu xa đã hằn dấu lên cuộc sống của những đứa trẻ, trong những nhắc nhở thì thầm trải qua những không gian và thời gian hiện hữu trong đời.
Tiểu thuyết này kể lại chuyện của một gia đình đã sống trong những quan hệ không thể tách rời với nỗi bi thảm khi thành phố Sài Gòn thất thủ. Một người là chiến binh lừng lẫy hào quang nay yếu đuối tàn tạ trong căn nhà của mình ở ngoại ô Virginia của thủ đô Washington DC với đứa con gái tên Mai đã lớn lên từ một phố nhỏ ở Chợ lớn thuộc thành phố Sài Gòn.
Tác phẩm mở đầu từ năm 1963 từ một khu vực buôn bán tấp nập ở vùng Chợ Lớn. Việt Nam đang ở trong một thời điểm lịch sử xoay chuyển. Dưới sự chăm sóc tận tình của người vú trung thành người Trung hoa, cô bé Mai sống yên ổn và ngây thơ với tuổi trẻ trong trắng không bị ảnh hưởng từ những yếu tố của thế giới bên ngoài. Cô có những cảm nghiệm hiện thực từ cuộc sống với chị em trong gia đình, với những người thân yêu và những bạn hữu trung thực. Rụt rè nhút nhát và ngại ngùng trước sự phiêu lưu, Mai đã tự mình tạo ra sự hiếu kỳ từ những gợi ý và thúc đẩy của người thân thuộc lớn tuổi hơn. Chị cô và cô tò mò suy nghĩ về thế giới bí ẩn và tìm kiếm những cấm điều mông lung của những ngã đường quanh co của những con phố Trung hoa lân cận. Các cô cũng kết thân với người lính Hoa Kỳ cùng ưa thích và say mê điệu nhạc “rock and roll” quyến rũ. Có những buổi tối đặc biệt, bà mẹ cô đọc chuyện Ả Rập ngàn lẻ một đêm hoặc những truyện khác để đọc sách cho trẻ thơ trước khi vào giấc ngủ. Ðôi khi, người cậu em của mẹ cô, là một Việt Cộng, đến thăm và gia đình lại phải tranh luận tuy rất nhân bản nhưng quyết liệt về chủ trương bài ngoại của Việt Cộng, đặc biệt là chống Mỹ và chống lại những người Trung Hoa Quốc Dân Ðảng. Bất kể cuộc chiến đang diễn ra khốc liệt và sự phân cách trong gia tộc, mọi người vẫn sống bình thường cho đến lúc những sự kiện nổ bùng và làm tan nát cả gia đình và đất nước.
Câu chuyện của cha cô bé Mai, một chiến binh của QLVNCH, bắt đầu từ năm 2006 khi nước Mỹ đang ở trong sự mạo hiểm của một cuộc chinh chiến lâu dài khác. Từ giường ngủ, ông hồi tưởng lại những trận đánh mà ông tham dự ở Sài Gòn, Cambodia, Huế, như đã bật TV để xem những cảnh tượng chiến tranh ở Baghdad và Basra. Nỗi đau xưa cũ trở lại. Và ông như bị trôi đi trong ký ức đột nhiên nhớ lại về một thời gian đã qua với niềm thương nhớ người vợ yêu dấu và với một đất nước quốc gia của mình. Ngày lại ngày ông lần theo mối chỉ của cuộc đời ông theo những khoảng thời gian từ cuộc binh biến thảm sát hai anh em Tổng Thống Ngô Ðình Diệm năm 1963, rồi những sự kiện xảy ra ở Vịnh Bắc Bộ năm 1964 để dẫn đến cuộc tham dự chính thức vào cuộc chiến đổ quân Mỹ vào Việt Nam vào năm 1965. Rồi biến cố tết Mậu Thân năm 1968, rồi hòa ước Paris năm 1973 đến biến động bi thảm của chế độ chính phủ Miền Nam sụp đổ năm 1975. Chưa hết, những hậu quả sau cuộc chiến với sự chiến thắng của Cộng Sản đã tạo thành làn sóng người vượt biển thử thách với nguy hiểm thoát ra nước ngoài tiếp theo sau cuộc rút lui của quân đội Hoa Kỳ. Mỗi sự kiện được ngắt quãng bằng những mất mát cá nhân không thể đền bù được. Những điều ấy là câu chuyện của mất mát ngây thơ, của sự thất hứa tồi tệ, của những bất ngờ xoay đổi giữa tình yêu và cuộc chiến.
Ký ức của người cha kể luôn cả những ngày hiện tại ở Virginia rồi trở lại quãng thời gian của ông ở Việt Nam. Mai, mà cuộc đời bắt đầu từ thập niên 1960 ở Việt Nam, đi tới khoảng thời gian mà cô sống tại Hoa Kỳ sau khi Miền Nam đã bị Cộng sản Bắc Việt xâm chiếm. Cả hai người, cha và con cùng sống những ngày hiện tại của năm 2006 tại Virginia và vùng phụ cận Little Sài Gòn. Tại nơi đây cả hai cha con tiếp tục hàng ngày chiến đấu với nỗi đau thương cũ và cố gắng bắt đầu cuộc sống mới trong im lặng và chịu đựng. Cả hai ngậm ngùi với sự tan vỡ bằng hai phương cách khác nhau. Một người không thể quay trở lại quá khứ nhưng ở cuối cuộc đời bằng cách nào đó tìm kiếm được sự tha thứ – tự mình làm tốt cho mình như cho những người khác. Một người khác cố gắng đến những mảnh vụn quá khứ để chạy thẳng tới phía trước với một nửa cuộc đời dường như phản ánh giấc mơ Hoa Kỳ. Trong kết luận The Lotus and The Storm là câu chuyện của những người đã tái xây dựng lại cuộc đời của họ trong hậu quả của chiến tranh và sự phản bội thất hứa. Bất kể nỗi đau và sự mất mát, họ tìm trong nội tâm sức mạnh chất chứa những sinh lực để tha thứ, yêu thương và sống thực.
The Lotus and The Storm có ý thức tiến về tương lai phía trước với bố cục tràn đầy những hành động nhưng cũng chan chứa những phản ánh để thế nào mỗi một người có thể tìm được một con đường đi tới vượt qua những bất ưng của đời sống. Ðó là kiếm tìm một tổ ấm của mái nhà yên bình.
Bài phỏng vấn của Eric Nguyễn với tác giả Lan Cao đã cho độc giả nhiều chi tiết lý thú, cũng như những cảm nhận độc đáo từ thân phận của người tị nạn. Thí dụ như câu hỏi:
“Cô đã được huấn luyện để thành luật sư. Và là giáo sư giảng dạy tại Dale E. Fowler School tại Chapman University. Cô luôn luôn muốn làm người viết văn không? Hay chỉ đam mê công việc cầm bút sau này?”
Và câu trả lời: “Tôi thích đọc sách từ thuở còn là một cô bé nhỏ xíu. Ở Việt Nam, tôi đã bị lôi cuốn vào truyện Ả Rập Ngàn Lẻ Một Ðêm và những bộ truyện kiếm hiệp của nhà văn kim Dung như Anh Hùng Xạ Ðiêu, Cô Gái Ðồ Long, Thần Ðiêu Ðại Hiệp. Tất cả với bố cục và tình tiết hấp dẫn đã làm tôi thích thú với những nhận xét thí dụ như trong truyện Ngàn Lẻ Một Ðêm nhờ năng lực lôi cuốn người nghe mà có thể cứu sống được sinh mạng của người kể chuyện. Tôi cũng đã được giới thiệu những tiểu thuyết Anh ngữ trong chương trình dạy những lớp AP English của tôi. Tôi yêu thích James Joyce với A Portrait of the Artist as a Young Man, bởi vì tác phẩm này đã làm tôi khám phá được tiến trình của đời người với một truyền thống văn hóa không cưỡng chế lại nội dung cuốn sách. Như thế tôi yêu thích viết văn từ tôi yêu thích đọc sách.
Ở đại học, tôi chọn học những lớp mà sinh viên được khuyến khích đi sâu vào nội dung, để tự mình khám phá ra được những ẩn tàng của thế giới bên trong cùng một lúc với sự quan sát bức tranh phác họa chiều rộng bên ngoài của chính trị, kinh tế, lịch sử, xã hội. Giáo sư khuyến khích chúng tôi viết nhật ký hàng ngày và viết để ghi chép lại những tác dụng hỗ tương giữa hai thế giới bên trong và bên ngoài. Bà giới thiệu với chúng tôi tác phẩm The Bluest Eye của Toni Morrison. Tôi yêu quí sách vở. Chúng tôi cũng đọc Jung và thơ của Adrienne Rich để đào xới trên những hoang tàn đổ nát cũng y hệt như lao vào thế giới của bóng tối chập chùng những điều chưa hiểu để làm nổi bật lên một nhân dáng nhiều sáng tạo và hiểu biết. Viết đối với tôi là bắt đầu học hỏi cách sống và cách yêu thương trong hình bóng chính mình. Sự bất toàn ở đây có thể nhìn thấy và viết về điều ấy. Viết là phong thái tự nhiên là một phần của bản ngã chính tôi và thật là cần thiết cho đời sống.
Tôi cũng yêu viết sách về luật và tôi thích gộp chung cách viết tiểu thuyết vào trong những công trình giáo dục khoa bảng khi dạy học và cầm bút. Khi tôi làm việc về luật ở New York sau khi tốt nghiệp tiến sĩ luật, vấn đề Việt Nam và kinh tế chỉ huy được chuyển đổi thành kinh tế thị trường đã làm tôi quan tâm. Sự kiện ấy xảy ra sau khi Liên Bang Nga Xô Viết tan rã và Bức Tường Bá Linh bị sụp đổ. Tôi nhìn thấy hiệu quả của luật pháp trong công việc tái tạo nền móng xã hội, biểu dương tự do cá nhân và khuyến khích phát triển kinh tế và chính trị trên căn bản hòa hợp quốc tế và giao dịch. Ðó là chủ tâm khảo cứu về lợi ích trong đời sống giáo dục khoa bảng chính thức của tôi.”
Trả lời câu hỏi khác của Eric Nguyễn: “Viết tiểu thuyết và viết sách luật, theo tôi thì ít nhất cũng là hai công việc khác nhau, đặc biệt là lãnh vực và mục đích của kinh tế và phát triển chính trị. Còn trong lãnh vực sáng tác, nhiều đề tài đã qua đi trong đầu. Cô đã là một luật sư giống như là một người viết văn như thế nào? Khi là luật sư và với kiến thức khoa bảng đã dạy cô điều gì khi viết văn?
Câu trả lời của Lan Cao: “Vâng, đó là hai lãnh vực khác nhau. Viết sách về luật, viết những nhận định duyệt xét trong sách giáo khoa, rất khác biệt với viết tiểu thuyết sáng tác. Viết về luật, phần đông là nghiên cứu, thật nhiều nghiên cứu để tìm kiếm và rồi chuyển đổi những điều ấy thành những bài luận thuyết. Mà nghiên cứu là ở từ những điều ở ngoại tại như sách vở, những đề muc, những cuộc phỏng vấn. Và tiến trình nghiên cứu thì chồng chất những dữ kiện phải lựa chọn để xác định được những mảnh nhỏ của dữ kiện dư thừa vượt quá giới hạn của chân lý. Với cách viết tiểu thuyết, tôi khởi đi từ hình bóng nội tại của chính mình và những mảnh vụn của chính tôi rồi tôi nói với phong cách hiếm họa liên quan tới nghiên cứu. Tôi không thường xuyên viết về Việt Nam, tuy nhiên có khi trong lúc thay đổi đề mục tôi không thấy cách viết của mình dính dáng nhiều đến sự tìm tòi khảo cứu (bởi vì tôi đã làm công việc khảo cứu khi viết sách luật). Với tiểu thuyết tôi đã dàn dựng bố cục đi xa ngoài nguồn gốc của trải nghiệm và quan sát của tôi.
Dĩ nhiên, khi dạy học tôi áp dụng lối viết rất khác biệt với phương cách viết tiểu thuyết. Quan hệ giữa thầy giáo / học trò đều ở trong tiến trình ảnh hưởng lẫn nhau trong khi cầm bút viết văn trên căn bản là cách thế cô đơn, Rồi tôi thích thay đổi những đòi hỏi nhiều ảnh hưởng với nhau và nhiều dữ kiện ngoại tại bên ngoài. Kết qủa tức thì, bạn dạy học trong lớp, bạn truyền đạt nội dung tư tưởng, bạn đẩy học trò đặt câu hỏi về những giả thuyết, bạn ca tụng sự phê bình lý luận. Và khi rời khỏi lớp học về nhà, bạn cảm thấy hài lòng với những điều đã áp dụng. Còn viết để sáng tác, thì cô đơn và nhiều mơ hồ trong chủ đích. Có khi, viết mà chẳng biết mình sẽ đi về đâu, cho hôm nay hay ngày mai…
Eric hỏi: “Cô nói cầm bút viết là hòa hợp giữa những điều tự hiểu biết và cái bóng của chính mình. Trong The Monkey Bridge tính chất ấy được xử dụng rất nhiều. Thực vậy từ tính chất của bà mẹ tên Thanh đã dùng văn chương để ghi lại từng thời kỳ theo lối biên niên của cá nhân bà để nói với cô con gái về sự thật trong lịch sử đời riêng. Cô có nghĩ rằng viết và kể lại chuyện đời là rất quan trọng đối với những sắc dân thiểu số như người tị nạn Mỹ gốc Việt? Nơi chốn nào cô nghĩ việc cầm bút thích họp để tạo thành sự đồng nhất của cộng đồng?
Lan Cao trả lời: “Tôi nghĩ viết và kể lại những câu chuyện rất quan trọng cho tất cả những ai cần thiết tới (thí dụ như một người suy nghĩ về Thoreau với Walden hay May Sarton với Journal of a Solitude) Người viết có thể viết với chính hành trình của họ. Nhưng tôi nghĩ viết và kể chuyện quan trọng với người di dân ở những cách thế khác biệt nhau (mặc dù tất nhiên người cầm bút viết cho họ và cho những hành trình của họ). Với người di dân, viết có thể với mục đích để xây dựng một cộng đồng và sáng tạo ra một dàn hợp xướng với những âm vọng quan yếu để cộng đồng này hiểu biết cộng đồng khác và cho thế giới bên ngoài hiểu được họ chân thực. Với bề ngoài là hình thức của một nhà văn di dân, tôi viết với tâm cảm của một người đã trải nghiệm qua những biến cố của cuộc sống mặc dù tôi nghĩ một phần tôi tin tưởng rằng tất cả những người cầm bút viết về cuộc hành trình của người di dân với sự trân trọng cách riêng.
Với nhà văn Mỹ gốc Việt ở một thế hệ lớn lên ở xứ sở này, Việt Nam và cuộc chiến tranh đã liên tục là một phần tử của đời sống chúng tôi. Ðó là đất nước (earth and water) và không thể tránh khỏi được phạm trù ấy. Và khi có một người nhìn thấy Việt Nam và cuộc chiến tranh được đề cập đến trong phương cách loại trừ ra khỏi chính cá nhân chúng tôi và những trải nghiệm của chúng tôi. Thì việc cầm bút đã ở trong nhiều kích thước khác nhau. Ðó là cách viết của nội tâm và cách viết của ngoại tại. Hay là cách viết cho mình và cách viết cho người khác. Ðó là cả hai viết và chuyển dịch. Khi mà yếu tố viết cho người khác quá nhiều thì sự cân bằng sẽ không còn và công việc ấy không còn tác dụng. Như thế, cần phải cân bằng trong khi viết.
Tất cả những câu chuyện (cũng như lịch sử) đều phải có tiêu điểm để nhìn ngắm và quan sát. Người viết văn Mỹ gốc Việt cũng ở trong trường hợp ấy…

Nguyễn Mạnh Trinh

No comments:

Post a Comment