ĐÊM RẤT THÁNH, ĐÊM KHÔNG CÙNG
|
Hát là cầu nguyện đến hai lần. (St. Augustine) |
Một anh bạn tôi, có cô vợ theo
đạo công giáo, nói rằng anh ta chỉ theo vợ đến nhà thờ hai lần trong một
năm, vào ngày lễ Phục Sinh và lễ Giáng Sinh. “Vậy là anh lấy hết hai
ngày lễ lớn nhất của người công giáo rồi còn gì,” tôi nói đùa. “Riêng lễ
Giáng Sinh,” anh ta nói, “không chỉ đi lễ nửa đêm, tôi còn hát theo
được bài thánh ca.” “Bài gì?” tôi hỏi. Anh trả lời, “Đêm thánh vô cùng.”
Từ “Silent night” đến “Đêm thánh vô cùng”
Bài thánh ca giáng sinh mà anh bạn tôi yêu thích và hát theo được không
phải là bài thánh ca của người Việt mà là bài nhạc ngoại quốc được viết
lời Việt. Ít ai biết được rằng bài hát ấy là bài thơ được phổ nhạc, có
điều không phải phổ thành nhạc mà là phổ vào nhạc.
Chuyện được kể
lại như thế này: bài hát được “chào đời” và cất tiếng lần đầu tiên vào
ngày 24/12/1818 tại một làng quê hẻo lánh ở Oberndorf, một tỉnh lẻ của
nước Áo. Trong làng ấy có ngôi nhà thờ nhỏ St. Nicholas. Trong nhà thờ
ấy có một linh mục trẻ yêu thơ, yêu nhạc tên Joseph Mohr (có tài liệu
nói ông là thầy phó tế chứ chưa phải linh mục). Lời của bài hát vốn là
bài thơ bằng tiếng Đức được cha Mohr sáng tác từ hai năm trước, tên là
“Stille Nacht, heilige Nacht” (“Đêm thinh lặng, đêm thánh thiện”).
Vào hôm trước lễ Giáng Sinh cha Mohr tìm đến người bạn mình, một anh
thầy giáo làng tên Franz Xaver Gruber, là người chơi đàn organ cho nhà
thờ, nhờ gấp rút soạn nhạc và phối âm cho bài thơ ấy để kịp trình diễn
với đàn guitar trong thánh lễ nửa đêm (vì lẽ cây đàn organ bị hỏng sao
đó). Công việc cũng chẳng khó khăn gì lắm, chỉ mất vài tiếng đồng hồ, vì
Gruber đã có sẵn trong tay một bài nhạc thánh ca mà anh từng viết ra
trước đó, nay anh chỉ việc bỏ đi lời cũ và thay bằng lời thơ hay ý thơ
của bạn mình là xong ngay. Thế rồi trong thánh lễ giáng sinh lúc nửa
đêm, hai chàng nghệ sĩ có ngay màn trình diễn một sáng tác mới toanh cho
cả nhà thờ thưởng thức trong tiếng đàn đệm guitar, hòa cùng giọng ca
đoàn hát chung hai câu cuối của mỗi đoạn thơ. Bài hát kết thúc trong sự
tán thưởng nồng nhiệt của đông đảo giáo dân trong làng.
Như vậy,
bài hát có hai “đồng tác giả” người Áo là linh mục “nhà thơ” Joseph Mohr
và nhạc sĩ “nhà giáo” Franz Gruber mà trước đó chẳng được ai biết đến
tên tuổi. Cả hai đồng tác giả này thật khó mà ngờ được rằng bài hát soạn
ra vội vã ấy một ngày kia sẽ bay ra khỏi ngôi giáo đường ở làng quê nhỏ
bé đó, vượt qua biên giới nước Áo, vượt qua nhiều biên giới của nhiều
quốc gia khác và bay đi khắp muôn phương để cứ mỗi mùa giáng sinh là mọi
nhà thờ lớn nhỏ trên mặt đất này đều nghe cất lên bài thánh ca ấy trong
tiếng chuông ngân rộn rã.
Do bản gốc của bài nhạc bị thất lạc,
mãi đến năm 1995 khi một bản thảo chép tay bài “Stille Nacht, heilige
Nacht” với thủ bút của linh mục Joseph Mohr được tìm thấy người ta mới
biết được tác giả của bài hát là ai. Trước đó bài hát vẫn được xem là
truyền khẩu hoặc gán cho tác giả là tên của những nhạc sĩ thiên tài.
Có những version khác nhau cho bài “Stille Nacht, heilige Nacht” nhưng
cho đến nay bản viết năm 1818 với nhịp 6/8, cung Ré trưởng, gồm sáu lời
nhạc vẫn được xem là bản gốc. Bài hát vượt cả không gian lẫn thời gian,
trở thành bất hủ, cứ mỗi mùa giáng sinh lại rộn ràng cất lên trên khắp
hành tinh này với giai điệu dìu dặt, ngọt ngào và êm dịu, phảng phất âm
hưởng nhạc dân ca truyền thống của miền quê nước Áo. Người dân Áo hoàn
toàn có thể hãnh diện khi bài thánh ca của quê hương mình được “nâng
cấp”, không còn là riêng của nước Áo nữa mà đã được “quốc tế hóa” để trở
thành bài thánh ca giáng sinh của cả nhân loại.
“Stille Nacht,
heilige Nacht” được chuyển ngữ sang hầu hết mọi thứ tiếng trên thế giới,
và đến nay người ta khó mà biết được chính xác đã có bao nhiêu bản dịch
bài thánh ca này (có tài liệu nói bài hát được chuyển dịch đến hơn ba
trăm thứ tiếng). Riêng đối với người Việt thì hai ngôn ngữ được yêu
chuộng nhất của bài hát là tiếng Anh và… tiếng Việt. “Silent night”, tên
bài hát với bản dịch tiếng Anh năm 1859 của giám mục John Freeman Young
thuộc giáo phận Florida, Hoa Kỳ, được xem là bản phổ biến rộng rãi
nhất, được nhiều người nghe và hát nhất hiện nay.
Đúng như tên
gọi “Silent night”, bài hát khe khẽ, chầm chậm cất lên với câu nhạc khởi
đầu bằng những nốt nhạc mềm mại tựa những bước chân rón rén, nhè nhẹ
trong tâm trạng nao nức, thấp thỏm như đợi chờ điều gì đó thật kỳ diệu
sắp sửa xảy ra. Nhạc điệu trầm lắng, dào dạt, khi vút lên cao khi chìm
xuống thấp như tiếng gió rì rào lượn quanh những đồi thông.
Nếu
nhiều người tỏ lòng biết ơn giám mục John F. Young về bản dịch tiếng Anh
ấy thì người Việt mình cũng cần nói lời cám ơn nhạc sĩ Hùng Lân, người
đã viết lời Việt cho bản thánh ca bất hủ này từ hơn nửa thế kỷ trước, và
đặt tên cho bài hát là “Đêm thánh vô cùng”. Nói “viết lời Việt” vì ông
không hề làm công việc dịch lời nhạc từ bản tiếng Đức hay tiếng Anh sang
tiếng Việt mà ngoài cái tựa bài và một hai ý trong bài hầu như ông đã
tự viết ra lời khác cho bài nhạc. Có thể nói được rằng, bài thánh ca
giáng sinh ấy được ông “Việt hóa”, khiến người hát và người nghe cứ
tưởng như bài thánh ca của người Việt chứ không phải của nước ngoài.
Người ta cám ơn nhạc sĩ Hùng Lân không hẳn vì ông là người đầu tiên đặt
lời Việt cho bài “Silent night” mà vì những lời thật ý nghĩa ông viết
ra cho bài nhạc ấy. Điểm khác biệt giữa nhạc thánh ca giáng sinh và
những thánh ca khác, nói như linh mục nhạc sĩ Kim Long (tác giả bài
thánh ca “Kinh hòa bình”), là ở lời ca. “Lời phải đi vào mầu nhiệm
của giáng sinh,” linh mục nói, “phải diễn tả được mầu nhiệm của
con người gặp gỡ Thiên Chúa, của đất với trời gặp gỡ nhau để
có được sự giao hòa, nhập thể của con Thiên Chúa trong đêm đầy
hồng phúc.”
Bài thánh ca ra đời trong đêm giáng sinh năm 1818
ấy, tính đến nay đã gần tròn hai trăm tuổi, cất lên mỗi mùa giáng sinh
về, và cứ được nghe đi nghe lại mãi, tưởng như không bao giờ cũ, không
bao giờ nhàm chán.
“Đất với trời xe chữ đồng”
Nhiều người
biết nhạc sĩ Hùng Lân là tác giả của “Hè về” (“Trời hồng hồng, sáng
trong trong, ngàn phượng rung nắng ngoài song…”), một ca khúc vui tươi,
sôi động trong số rất ít những bài hát phổ biến về mùa hè, nhưng ít ai
biết ông là một nhạc sĩ đi tiên phong trong nhiều lãnh vực: là một trong
những nhạc sĩ hàng đầu về nhạc hùng của tân nhạc Việt (tác giả những
bài quen thuộc như “Rạng đông”, “Khỏe vì nước”, “Tiếng gọi lên đường”,
“Mùa hợp tấu”, “Cô gái Việt”, “Việt Nam minh châu trời đông”…); là nhạc
sĩ khởi xướng phong trào viết nhạc thánh ca bằng tiếng Việt; là soạn giả
đầu tiên cho những sách giáo khoa về âm nhạc trong các trường học phổ
thông; là một trong những người thầy sáng lập trường Quốc Gia Âm Nhạc Và
Kịch Nghệ, Saigon và cũng là giáo sư âm nhạc tại trường này, tại Viện
Đại Học Đà Lạt và nhiều trường học trong Nam ngoài Bắc (trong số ấy có
trường Chu Văn An, Hà Nội); là “cha đẻ” của chương trình gọi là “Đố Vui
Để Học” được Trung Tâm Học Liệu Saigon phát hình lần đầu tiên năm 1969,
và cũng là người đầu tiên mang bài thánh ca nổi tiếng “Silent night” ấy
đến với giáo dân và người Việt yêu nhạc.
Nhạc sĩ Hùng Lân không
phải là người duy nhất viết lời Việt cho bài “Silent night”, sau ông
nhiều nhạc sĩ đã thử viết lại những lời Việt khác với những tựa khác
(“Đêm huy hoàng”, “Đêm vui mừng”, “Đêm âm thầm”, “Đêm thanh bình”, “Đêm
yên bình”…) nhưng đều là những cố gắng không thành công, hiểu theo nghĩa
người Việt yêu nhạc vẫn ở lại với “Đêm thánh vô cùng”. Vì sao vậy? Đâu
là chỗ khác nhau giữa các “bản dịch” ấy?
Đầu tiên phải là cái tựa
bài. Đêm ở đây là đêm thanh khiết, đêm sâu lắng, đêm im lặng mênh mông
đến vô cùng. “Đêm thánh vô cùng” nối liền được cả hai ý: “silent night”
và “holy night”. Đêm Chúa giáng sinh không chỉ thuần là đêm tối thinh
lặng mà còn là đêm huyền diệu. “Đêm thánh vô cùng”, chỉ có tên gọi ấy
mới nói hết được ý nghĩa của bài thơ, bài nhạc. Đêm rất thánh, đêm không
cùng.
Nếu câu hát chủ điểm trong bài “Silent night” là “All is
calm, all is bright” thì trong “Đêm thánh vô cùng”, câu hát ấy chính là
“Đất với trời xe chữ đồng”. Cả bài thánh ca tiếng Việt ấy toát lên một ý
chính, gói trọn trong câu sáu chữ này.
Người nhạc sĩ không nói
“trời đất giao hòa” mà nói “đất với trời xe chữ đồng”. Có khá nhiều
“đồng” ở trong “chữ đồng” ấy: đồng lòng, đồng tình, đồng tâm, đồng cảm,
đồng thuận… “Đất” là con người, là tạo vật trên thế gian này; “Trời” là
con Thiên Chúa, là đấng tối cao, đấng tạo dựng loài người.
“Đất
với trời xe chữ đồng” là thời khắc mà khoảng cách giữa Thiên Chúa và con
người như được kéo gần lại, thời khắc mà tình yêu giữa đấng tối cao và
con người, giữa con người và con người như được hợp nhất, hòa quyện vào
nhau, khiến con người như gần với Thiên Chúa và gần với nhau hơn bao
giờ.
“Đất với trời xe chữ đồng” là thời khắc mà Thiên Chúa mở
lòng ra với mọi người và ban phát tình yêu thương bao la, thời khắc mà
con người đón nhận tình yêu thương ấy như đón nhận “ơn châu báu không bờ
bến”. Con người đồng thời cũng mở lòng ra với đồng loại để cho nhau
tình yêu thương giữa người và người.
“Đêm thánh vô cùng” trong ý nghĩa đó là đêm hạnh ngộ, đêm tràn đầy hồng ân và chan chứa những thương yêu.
Ôi Chúa thiên đàng, cam nếm cơ hàn
Nhắp chén phiền, vương phong trần
Từ lâu tôi vẫn thích câu hát này, nghe có chút gì… phong trần, và cảm
thấy Thiên Chúa thật gần gũi với con người vì Người cũng bôn ba, cũng
lao đao lận đận, cũng…“bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới
được phần thanh cao”, nào có khác chi người phàm.
Ai đang sống trong lạc thú
Nhớ rằng Chúa đang đền bù…
Bao giờ tôi cũng chờ để nghe giọng ngân ấy vút lên, “trong lạc th… u…
ú…”, nghe như tiếng chuông cảnh tỉnh những ai còn đang mải mê ngụp lặn,
miệt mài tìm kiếm những hoan lạc của cuộc sống trần tục.
Tôi
không chắc có bao nhiêu người thuộc hết được lời bài “Đêm thánh vô
cùng”, phần lớn chỉ nhớ được đến lời thứ hai của bài, còn lại là hát
theo ca đoàn hoặc hát theo nhau cho đến câu hát cuối, “Bốn bề tuyết
sương mịt mù”, trong lúc câu cuối bài “Silent night” được John F. Young
viết lời là “Jesus, Lord, at Thy birth”. Điều lý thú là chẳng ai nêu
thắc mắc với nhạc sĩ Hùng Lân, vì sao ông không chịu dịch cho sát nghĩa
lời của bản gốc mà lại viết ra lời khác; hơn thế nữa, mọi người còn tỏ
ra yêu thích lời Việt “cải biên” ấy. Liệu có phải là những lời ấy phù
hợp với “tâm tình mùa giáng sinh” của tín hữu người Việt hơn? Cho đến
ngày nhạc sĩ Hùng Lân lìa đời ở trong nước (năm 1986) người ta không
nghe được nơi ông một lời giải thích nào cả.
Có điều là đến nay
hầu như không ai còn có ý định chuyển dịch hoặc đặt lời Việt nào khác
cho bài thánh ca giáng sinh ấy. Trong một nghĩa nào đó, kể từ ngày câu
hát “Đêm thánh vô cùng! Giây phút tưng bừng!” được cất lên, bài “Silent
night” như có một đời sống khác sau khi được “Việt hoá”. Người Việt cùng
hát với nhau bài hát ấy trong niềm cảm xúc dạt dào khi mùa giáng sinh
về, mà không cảm thấy đấy là bài thánh ca của nước ngoài.
Với ý
nghĩa của bài hát, của “đất với trời xe chữ đồng”, “Đêm thánh vô cùng”
hầu như thích hợp với hợp ca, đồng ca hơn là đơn ca. Bài hát càng thêm ý
nghĩa khi được nhiều người cùng hát với nhau. Trước giờ tôi chưa nghe
có giọng hát nào gọi là gắn liền với bài hát này, hoặc bài hát này làm
nên tên tuổi của ca sĩ nào. Đến nay, sau nhiều lần nghe đi nghe lại bài
thánh ca ấy, những lần gieo vào lòng tôi nhiều cảm xúc nhất vẫn là đến
từ những màn hợp xướng của các ca đoàn hơn là từ ca sĩ chuyên nghiệp.
Hát “Đêm thánh vô cùng” là đi tìm sự bình an trong tâm hồn, là đi tìm
vẻ đẹp trong sáng, hướng thượng để thanh lọc tâm hồn và để lòng lắng
xuống trong giây phút lâng lâng tiếng nhạc.
“Silent night” không
chỉ là bài thánh ca giáng sinh mà còn mang ý nghĩa của một thông điệp
hòa bình cho nhân loại, một thông điệp mang đến tình yêu thương, lòng
bao dung và thứ tha trong một thế giới an hòa. Nhân loại đến nay vẫn
chưa thực sự có an bình, vẫn còn những con người đi gieo rắc thù ghét và
bạo lực thay vì gieo rắc tình thương yêu đến cho đồng loại. Trong lúc
thế giới đang có những biến động từng ngày từng giờ và cảm giác bất
trắc, bất an phủ trùm lên đời sống con người hơn bao giờ thì bài thánh
ca ấy vang lên trong mùa giáng sinh này như đáp ứng nỗi mong đợi, khát
khao của những người “thiện tâm”.
Vào đúng lúc nửa đêm, vào đúng
thời khắc Chúa giáng sinh, bài thánh ca có từ hai trăm năm trước ấy được
triệu triệu tín hữu trên khắp hành tinh này cùng lúc trỗi giọng cất
lên. Bài hát mang đến cho con người chút cảm giác yên bình hiếm hoi và
cũng mang đến niềm tin vững vàng về những giá trị của chân, thiện, mỹ.
Hát lên bài thánh ca ấy như thắp lên ngọn lửa tin yêu, cho bóng tối bị
đẩy lùi, cho cái xấu, cái ác bị xóa sạch và những điều tốt, điều lành
trên thế gian này sẽ không bao giờ mất đi.
Khi người ta cùng yêu
thích, cùng chia sẻ những cảm xúc về một bài hát; hơn thế nữa, cùng hát
chung với nhau một bài hát là có chung với nhau sự đồng cảm, đồng thuận.
“Singing together is praying together”, tôi tin là như vậy. Khi mà
người người đồng lòng, “đồng thanh tương ứng” cất cao tiếng hát, khi mà
người người đồng tâm hiệp ý nguyện dâng lời khẩn cầu lên đấng tối cao
thì đức tin con người cũng mạnh mẽ hơn lên, tin vào mầu nhiệm của Đấng
Cứu Thế giáng sinh, mầu nhiệm của con người gặp gỡ Thiên Chúa, mầu
nhiệm của tình yêu Thiên Chúa đổ tràn xuống con người, và cả tình yêu
giữa người và người trong đêm tràn đầy hồng ân.
Đất với trời… xe chữ đồng…
Lê Hữu
Phương Lan post lúc 6:43 PM
ngày 25 tháng 12 năm 2015