Nhà văn Doãn Quốc Sỹ (Toronto 27/7/2012)
Khoảng giữa năm 1979 tôi đến thăm gia đình nhà văn Doãn Quốc Sỹ nhà ở
trong một con hẻm đường Thành Thái, Sài Gòn mới biết bố Sỹ đang ở tù
cải tạo trên cao nguyên Gia Rai. Ba mươi ba năm sau, ngồi bình thản dưới
mái nhà bình thường của tôi ở Canada, bố Sỹ nhíu mày, cặp mắt xa xăm
nhìn vào quá khứ như lục lại từng trang đời thê thiết, kể: ” Năm 76
chúng đến trường Sư Phạm gởi giấy yêu cầu tôi đến Phường trình diện học
tập bốn hôm rồi về, nhưng kỳ thực sau đó chúng bắt tôi đưa lên trại Gia
Trung mãi trên cao nguyên Gia Rai. Trại này nằm sâu trong một cánh rừng
giữa Pleiku – Kontum. Sở dĩ gọi là Gia Trung là vì trại nằm cạnh con
suối người Thượng gọi là I-a I-ung, mình nói trại ra là Gia Trung. Chúng
giam tôi từ năm 76 đến năm 80 thì được thả về…”
“Năm nay bố Sỹ của em gần 90 tuổi rồi, nhưng anh xem, cách ăn mặc vẫn còn gọn gàng, tươm tất lắm. Càng già bố Sỹ càng hiền lành, dễ dãi, đôi lúc ngây thơ như trẻ con”, cô Doãn Hương, con gái út của nhà văn cười nhe chiếc răng khểnh nói với tôi thế.
“Năm nay bố Sỹ của em gần 90 tuổi rồi, nhưng anh xem, cách ăn mặc vẫn còn gọn gàng, tươm tất lắm. Càng già bố Sỹ càng hiền lành, dễ dãi, đôi lúc ngây thơ như trẻ con”, cô Doãn Hương, con gái út của nhà văn cười nhe chiếc răng khểnh nói với tôi thế.
Tuy già yếu, hom hem như thế, lãng đãng đến thế nhưng khi nói về tình
hình đất nước, về vận mệnh dân tộc, về nghiệp dĩ văn chương… Bố trở nên
linh hoạt lạ thường.
Nói đến nhà văn Doãn Quốc Sỹ lâu nay người ta thường nghĩ đến hình
ảnh của một kẻ sĩ thời đại. Ông là hội tụ của trí tuệ và tình thương,
của niềm tin và ước vọng. Bằng một hành động lịch sử, trong lao tù ông
đã từng lẫm liệt, khẳng khái chống lại những gì đi ngược với công cuộc
tranh đấu cho hòa bình đất nước và nguyện vọng của nhân dân miền Nam.
Cuộc đời và con người của kẻ sĩ là như vậy. Có điều con người bất khuất
này, dù được người đời ngưỡng mộ và vinh danh cũng chẳng hề làm ông biến
dạng đi chút nào. Xưa sao tôi không biết nhưng nay trước mặt tôi, bố Sỹ
của tôi vẫn bình thường, giản dị, gần gũi, hồn nhiên như bất cứ ông già
nào tôi có thể gặp ở ngoài đời. Cái vẻ đẹp thật kỳ lạ của tâm hồn ấy
tỏa rạng lên cả con người ông, ánh lên đôi mắt cười dễ dãi, gương mặt
xương xương nhưng phúc hậu. Chính những tinh chất óng ánh đó đã kết hợp
thành chân dung con người kẻ sĩ.
Chúng tôi ngồi nói chuyện tương đắc với nhau được một lúc thì bố Sỹ
ngồi thẳng người, gương mặt kẻ sĩ miền Nam tươi tắn hẳn ra, Bố kể: “Năm
84 đến năm 92 tôi tiếp tục viết gởi tác phẩm qua Pháp cho nhà xuất bản
Lá Bối của thầy Nhất Hạnh in và phổ biến ở hải ngoại. Cộng sản tinh ranh
lắm, luôn luôn rình rập, theo dõi từng cử chỉ hành động của tôi. Biết
thế nhưng tôi vẫn điềm tĩnh. Khi đến bắt tôi lần thứ hai chúng đưa ra
những bản photocopy chụp tất cả những gì tôi viết gởi ra nước ngoài làm
bằng cớ để buộc tội. Trong tù, chúng ép tôi nếu ký giấy thú nhận tội
trạng tôi sẽ được khoan hồng nhưng tôi quyết liệt khước từ tất cả (Bố nhấn mạnh).
Bởi vì tôi luôn quan niệm rằng yêu nước không phải là một cái tội. Cuối
cùng trước tòa, chúng ghép tôi vào tội phản động, là một trong mười tên
biệt kích văn hóa đã lén lút gởi tài liệu ra nước ngoài tiếp tay với
bọn phản động nhằm chống phá Cách Mạng và chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, phán
xong chúng kêu án tôi 10 năm tù. Trải qua những năm tháng lao nhọc trong
lao tù, cứ đến những ngày lễ lộc, Tết nhất cũng như những lần sinh nhật
của Hồ Chí Minh thì chúng ra cái điều khoan hồng giảm án. Cứ thế, trừ
những lần được giảm án cho đến hết hạn tù thì tôi ở tù mất 8 năm rưỡi,
cộng với 4 năm tù lần trước vị chi là 12 năm rưỡi tôi bị Cộng sản giam
cầm”.
Kể đến đây Bố như trút bớt phần tâm sự. Hớp một hớp trà, giọng trở
nên trào lộng, Bố tiếp: ” Trước ngày mãn hạn tù chúng chuyển tôi đến
trại K3 Xuân Lộc. Trại này nằm dưới chân núi Chứa Chan. Nghe thì lãng
mạn lắm, chứa chan lắm, nhưng sống trong cảnh tù tội thì Chứa Chan có
khác nào Chán Chưa“.
Rồi Bố sang sảng đọc thơ: “Nam Nhâm nữ Quí thì sang. Nhược bằng ngược lại gian nan nhiều bề”.
Ý nói Bố sinh nhằm mạng nữ Quí nên phải chịu khổ đến hơn 12 năm
tù.Chưa hết. Dính dáng tới văn chương thi phú vốn đã ăn sâu trong cuộc
sống và bản chất, bố Sỹ thật sự hưng phấn. Bố nói thật hay:
- Cụ Tú Mỡ, bố vợ tôi sanh được 8 người con được Cụ đặt tên theo thứ tự vần: “Năm trai ba gái tám tên. Tri Hiền Thảo Dũng Hùng Chuyên Vỹ Cường”. Vợ chồng chúng tôi cũng thế, có tám con – Bố tiếp luôn: ” Bốn trai bốn gái tám tên. Thanh Khánh Liên Thái Vinh (liền) Hưng Hiển Hương”.
Câu lục bát “phá cách” này làm Bố Sỹ gượng nhẹ cười nói Bố phải thêm chữ “liền” ở câu bát cho đồng vận với chữ “tên” ở câu lục…
Lắng nghe “ông già” kể chuyện tù, chuyện gia đình thơ thới như kể
chuyện cổ tích khiến tôi vừa phục lăn vừa thương Bố quá chừng. Chính
thái độ và hành động của một nhà hoạt động chính trị, một kẻ sĩ miền
Nam, một người yêu nước, một nhà văn, nhà giáo khẳng khái trước tòa, bất
khuất trong lao tù đã làm lay động tận cùng lương tâm những người trí
thức trong và ngoài nước.
Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn viết về nghĩa khí của ông qua bài thơ “Tinh Thần Và Bạo Lực”:
Công an có cây súng
Bắn hoài không chết ai
Thì sĩ còn ngòi bút
Điểm mặt kẻ vô loài
Công an có cây súng
Nện tới tấp tơi bời
Đánh không sờn không ngã
Giam sao được lòng người
Giam sao được lòng người
Quỷ vương trăm lần chết
Khuyển ưng rụng một bầy
Thở tràn như nước chảy
Như sóng bủa trùng vây
Công an hết đường chạy
Vòng đai khép chặt rồi
Trong mỗi lời mỗi chữ
Nghìn gươm phục rạng ngời
Công an có cây súng
Bắn hoài không chết ai
Thi sĩ còn ngòi bút
Điểm mặt kẻ vô loài
Công an có cây súng
Cây súng và nhà tù
Thi sĩ còn ngòi bút
Máu chảy hoài thiên thu
Bố Sỹ qua Canada ghé nhà tôi tuần rồi có cô út Hương của Bố theo kèm .
Cũng trong năm 1979, ở bên nhà cô út và tôi có một chút kỷ niệm dễ
thương để nhớ. Số là cô Liên, chị cô út biết rõ tình cảnh lang thang đầu
đường xó chợ của tôi nên sau cái đêm văn nghệ hát chui với một số anh
em văn nghệ sĩ ở Sài Gòn, vợ chồng cô thương tình kéo tôi về nhà nghỉ
qua đêm.
Sống lang thang bờ bụi lâu ngày, một hôm nhờ lòng nhân ái mà tôi có
một chỗ êm ái để nghỉ lưng, dù chi một đêm thôi cũng không còn gì hạnh
phúc hơn. Nửa đêm nằm một mình trong phòng khách vắng lặng, trên bộ sofa
màu đỏ, tôi ngẫm nghĩ và nhận ra một điều: Có lẽ nhờ những mớ tai ương
lâu nay tôi gánh chịu mà cái hạnh phúc an bình và hài lòng mình nhận
được nó có giá trị tột đỉnh như thế nào. Hé mắt nhìn ra ngoài đời kia
với biết bao viễn ly điên đảo mộng tưởng trong khi ở đây, trong căn nhà
này, không có gió máy, không có nắng mưa, không có muỗi mồng, chỉ có sự
che chở và tình thương của con người đối với con người. Đêm đó tôi ngủ
một lèo thẳng thừng mà không hề bị trở giấc.
Sáng hôm sau vừa thức dậy tôi gặp ngay cô út ít trong nhà xẹt tới hồn
nhiên dương mắt tò mò nhìn tôi một cái rồi te rẹt xuống bếp mất dạng.
Ngoài đường hẻm tiếng người ồn ào qua lại, có cả tiếng trẻ con nô đùa
trong xóm. Đã đến lúc mình phải nói lời cảm ơn và chào từ biệt Doãn Gia
để tiếp tục lao thân vào nơi vô định. Tôi ra đi lần đó đến nay đã ba
mươi ba năm dâu bể mà lòng tôi vẫn âm thầm chịu ơn Doãn Gia, đặc biệt là
đôi con mắt đen láy, mở to của cô út dù một thoáng thôi tôi vẫn cảm
nhận được cái đẹp hồn nhiên và hồn hậu của cô út mà cho đến tận ngày nay
ánh mắt đó vẫn không hề chịu tắt trong tôi.
Năm 2009, ở Canada tôi mừng được tin cô út Hương sang Mỹ đoàn tụ với
gia đình. Sau rất nhiều năm bịn rịn với quê nhà, cuối cùng vì gia đình
Bố Mẹ, vì anh chị em, vì tương lai cô đành bỏ xứ, bỏ bè bỏ bạn mà đi; cô
bỏ cả bài thơ “Cô Út Lìa Quê” của Lão Nho đọc lên nghe buồn buồn:
A ha!
Lấy vòng kim cô riệt đôi chân xinh xắn lại
Không cho nó chạy khỏi quê nhà
Không cho nó chạy khỏi quê nhà
Chao ôi! Nửa chừng câu thiên lý
Lại mọc ra vó ngựa đường xa
Nhịp nhàng nhịp vấp dây bịn rịn
Làm sao hốt lại giọt lệ nhòa
Thôi thì bỏ xứ mà đi trớt
Có nhớ cũng đành mượn bờ môi
Khóc lên một tiếng
Ơi, một tiếng
Một tiếng dài như kiếp mây trôi
Thiên lý chạy vòng nửa trái đất
Đói lòng ăn chút bụi quê nhà
Hớp miếng gió quê cay trồng mắt
Hột lệ nào khóc miết không ra.
Vậy đó. Vậy mà ba mươi ba năm vèo qua như một giấc mộng. Cô út đã
chạy việt dã nửa vòng trái đất để ngày nay hai anh em lại mừng tri ngộ
nơi xứ người. Trước mặt tôi là bố Sỹ, ngồi cạnh là út Hương, cách tôi có
vài gang tay, nhưng khoảng trống giữa chúng tôi là ba mươi ba năm dâu
bể. Tôi nhìn gương mặt út Hương. Vẫn đôi mắt mở to ra đó, nhưng giữa sự
rắn rỏi, đậm chắc vẫn pha thêm cái nét trẻ trung, rạo rực, nồng nàn, Rõ
ràng út Hương bây giờ ra chiều chững chạc hơn, nhanh nhẹn và tự nhiên
hơn. Chính sự gần gũi, thân thiện của cô út, ngoài đôi mắt ngày xưa ấy
bây giờ tôi lại được nhận thêm tiếng cười nói dòn dã trên đôi môi tươi
tắn để lộ chiếc răng khểnh ra. Cái khểnh của chiếc răng lộ ra mỗi khi cô
cười tôi thấy nó giống như cái lõi hoa màu sữa bị mắc kẹt giữa hàm răng
trắng ngà, chắc nịch rất có duyên.
Không ai biết trước được đường đi nước bước của đời mình. Hôm nay út
Hương rắn rỏi mà mềm mại ngồi đây, vậy mà ngày mai ngày mốt hay sang
năm, cô lại hớn hở bay qua Hòa Lan lên xe hoa theo chồng về dinh không
chừng.
Hê hê!!!
Phan Ni Tấn
Nguồn: Tác giả gửi bài và ảnh
Nguồn: Tác giả gửi bài và ảnh
No comments:
Post a Comment