Trần Mộng Tú ♦ 9.10.2015.
Con cá đá Xiêm mua từ tháng hai, chết một tuần nay rồi. Như vậy là từ
khi về nhà tôi, nó sống được 7 tháng và nó đã được giữ vai chính trong
truyện “Mùa Phấn Hoa Anh Túc” của tôi.
Người bán cá bảo nó có thể
sống lâu hơn nữa cơ. Nhưng một tuần đi xa nhà, trước khi đi tôi quên
thay nước, khi về thấy nó bơi uể oải trong bình nước đục tôi biết ngay
là nó bị bệnh trong nước bẩn rồi. Tôi vội thay nước và nhớ thay thường
xuyên. Nó sống, nhưng cái giải đuôi như lụa của nó không uốn lượn phất
phơ nữa. Nó bơi lừ đừ, cái đuôi thỉnh thoảng mới đưa nhè nhẹ, như một
ông lão đi chậm chạp, cầm cái quạt giấy, thỉnh thoảng mới phất phơ. Tôi
biết là nó sắp sửa phải vào Hospice rồi. Cuối cùng, một buổi sáng nó nằm
im dưới đáy bình, trên mấy cái lá rong xanh như một người bình thản đặt
đầu trên gối lụa.
Tôi đem nó ra ngoài vườn, bới sơ dưới gốc cây
Mộc Lan một hố nhỏ bằng cái chén ăn cơm, cho nó nằm vào, lấp đất lên.
Cái thân bé nhỏ mong manh của nó chỉ cần mấy hôm sẽ tan vào đất.
Cái bếp của tôi tự nhiên vắng ngắt, im lặng mặc dù Biga (tên hai đứa bé
đặt cho cá) trước đây chẳng bao giờ cất tiếng hát. Tôi đang nghĩ không
biết sẽ trả lời hai đứa cháu ngoại thế nào khi chúng sang chơi, hỏi
“Biga đâu?”
Một tuần không có Biga tôi không có bạn trong bếp,
cái bình thủy tinh trong suốt nơi tôi cho vào đó một cụm thủy trúc nhỏ
có Biga bơi bơi nay chỉ còn nhìn thấy đám rễ vàng hoe. Nhà của Biga hay
được để giữa cái bàn ăn nhỏ trong bếp này, tôi thường vừa nấu ăn vừa
thỉnh thoảng ngắm nghía. Nhất là buổi sáng, một mình trong cái bếp yên
tĩnh, vừa ngồi nhâm nhi cà phê vừa hỏi chuyện Biga vài ba câu, vừa nghe
chim hót trên cây mộc lan ngoài vườn, đôi khi tôi nhớ đến câu thơ hay.
Xuân gần tàn/ Hoa tràn lệ/ Con mắt cá rưng rưng. Đó là một vần thơ Hài Cú của Basho. Tôi đã đọc cho Biga và tôi cùng nghe.
Đối với tôi những con vật be bé hiền lành hay những loài hoa cỏ nho
nhỏ, nhất là những loại nhắc đến quê nhà, rất cần thiết, tôi không thiếu
chúng nó lâu được.
Sáng nay tôi ra Pet Shop dán mũi vào mấy cái
chậu cá vàng, nhìn mãi, biết là mình không mua được vì nhà không có hồ
cá (lý do không biết đặt máy lọc nước và thay nước) lại dán mắt vào mấy
cái hộp nhựa nhỏ đựng riêng rẽ từng con cá đá. Loại này không thể hai
con sống chung một bồn với nhau được, khi cả hai cùng phái. Chúng nó sẽ
đá nhau tới chết, Fighting Fish mà. Đó là lý do tại sao Biga phải sống
cô đơn.
Tôi thấy con cá với cái đuôi màu đỏ có nhãn là Rose petal
khá đẹp nhưng giá tới hai mươi đồng. Hôm trước tôi mua Biga có bẩy
đồng. Đắt quá! Tự nhiên tôi không muốn nuôi cá nữa, có lẽ tôi vẫn còn
quyến luyến với Biga, nên lấy cớ đắt rẻ, vì chưa muốn con cá khác thay
thế nó. Tôi lang thang ra chỗ Ếch Phi Châu. A, mấy con ếch này từ Phi
Châu sang mà sao nó không đen, da nó có màu kem. Tôi hỏi mua hai con.
Anh chàng bán hàng hỏi:
– Bà có hồ nước ấm không? Chúng cần ở trong nước bẩy mươi độ.
– Tôi không có.
– Như thế thì đừng mua.
– Tôi không có hồ ấm, nhưng tôi sẽ cho nước ấm mỗi ngày và tôi sẽ để nó
ở trong bếp nơi tôi nấu ăn. Nếu cần, tôi sẽ đặt đèn cho nó cả ngày.
Anh ta nhìn tôi với cặp mắt không mấy thiện cảm, tôi lờ đi, nói:
– Anh lấy cho tôi hai con.
Anh ta miễn cưỡng mang cái bao ni-lon lại vớt hai con ếch to bằng hai con dế dũi cho vào, đưa cho tôi với câu nói:
– Đáng nhẽ bà không có hồ ấm tôi không bán, vì giống này ở Phi Châu chỉ quen nóng thôi.
Tôi thấy anh ta khó chịu nên trả lời nhẹ nhàng.
– Anh đừng lo tôi ở xứ nóng sang đây, tôi cũng phải tập quen với cái
lạnh. Hai con ếch này sẽ có ngày chúng bắt tôi cho thêm đá vào nước đấy.
Anh ta hừ nhẹ một tiếng trong họng, đưa bịch cá cho tôi không nói thêm một câu. Tôi lờ đi như không biết, vẫn cám ơn ngọt ngào.
Tôi mang ngay hai anh chàng Phi Châu về. Cái nhà của Biga bây giờ chỉ
còn cây thủy trúc nhỏ. Dọn hai chàng này vào không được. Ếch cần có cái
sàn rộng hơn. Tôi lại chạy đi mua một cái bình hình chữ nhật, ra vườn
tìm ba hòn đá, cần một hòn mỏng, để làm nóc, tôi biết ếch thích leo trèo
và thích có hang. Tôi kiếm được một miếng gạch vỡ, rửa sạch tất cả, xếp
thành hình cái hang nhỏ trong đáy bình. Đổ nước âm ấm, thả hai con ếch
vào, đứng ngắm:
Ao cũ / Con ếchnhẩy vào / Vang tiếng nước xao.
Hai con ếch dọn vào nhà mới không phải ao cũ, nhưng được nghe ngay thơ Basho, chúng thật là may mắn.
Chúng may mắn hay tôi may mắn. Tôi nhớ mùa hè năm ngoái, tôi mua được
một cụm bèo Nhật ở một nhà bán cây kiểng Mỹ. Khi nó nở một bông hoa tím
tôi hạnh phúc đến bàng hoàng như mang được cả quê hương đến nơi này. Bao
nhiêu câu hát về hoa Lục Bình theo nhau chạy về trong trí nhớ. Thế mới
biết cái hồn viễn xứ mạnh thật. Khi sống xa quê những vật nhỏ bé, tầm
thường nào mang hình ảnh quê nhà đều có tác dụng rất mạnh với mình.
Hai con ếch Phi Châu này không hiểu tại sao da không đen, chắc chúng đã
mấy đời lai giống. Tôi nhớ mấy năm về trước tôi mua được một con da đen
bóng nó sống với tôi được sáu bẩy tháng mới mất, nó mất cũng chỉ vì tôi
vắng nhà mười ngày, không ai săn sóc nó, nếu không chắc nó còn sống lâu
hơn. Tôi thích mấy con ếch vì nó làm tôi nhớ đến mấy con ếch nhỏ màu
xanh biếc như cánh bèo ở ao quê nhà vào thời thơ ấu. Con ếch đó to và
đẹp hơn loại ếch kiểng Phi Châu này nhiều.
Đôi khi tôi tự hỏi,
mấy con cá mang nhãn hiệu của nơi xuất xứ thật ra đã bao nhiêu đời được
gây giống bên ngoài quê hương gốc của nó. Hai con ếch Phi Châu này chắc
chắn từ đời ông sơ, ông cố nó sinh ra ở Phi Châu không phải đời nó, nên
nước da mới trắng nhợt thế này.
Tôi nghĩ đến thân phận di dân.
Con người cũng vậy thôi, chỉ đời cha, đời ông mới được người cùng quốc
gia ở quê nhà gọi là “kiều bào” nhưng đời cháu, đời chắt, họ đánh rơi
ngay hai chữ đó trên mỗi bước họ đi. Họ nhận (hay họ chính là) người của
quốc gia họ sinh ra và trưởng thành.
Điều đó tự nhiên đến nỗi
chẳng ai còn nhớ ra để mà buồn, vì các ông bà cố và cha mẹ, họ hàng xa
xưa của họ đã qua đời hết rồi. Đôi khi họ có lúc tìm lại, như tìm một sự
kiện để làm một bản văn hay một luận án ra trường. Xong việc đó, mọi
việc lại cất vào ngăn lưu trữ, họ lại sống cái đời đang sống. Tôi nhớ
hồi mới sang Mỹ, gặp một phụ nữ Á đông ở chỗ làm. Hỏi chị người nước
nào, chị thản nhiên nói “người Mỹ”. Chị sinh ra ở Mỹ, trưởng thành ở Mỹ,
ông nội và bố chị cũng sinh ra ở Mỹ. Như vậy ông cố chị là người đầu
tiên tới đây, đến chị là đời thứ bốn, cho nên chị không nói được tiếng
Hoa. Chị nói, cả gia đình tôi, sống theo tập quán của người Mỹ, chúng
tôi thưởng thức những ngày lễ hội của Trung Hoa như tất cả những người
Mỹ khác mà thôi, không ai quan tâm đến mình phải là người Hoa nữa.
Hồi đó mới sang, còn trẻ, tôi nghe ngạc nhiên lắm, nghĩ thầm trong đầu “Đúng là mất gốc”.
Bây giờ lớn tuổi, cách suy nghĩ cũng khác đi, miền tin vào năm tháng
thấy mong manh quá. Thử tưởng tượng năm 2100, tám mươi lăm năm nữa, đứa
bé Syrian được sinh ra ở Ý, ở Đức, ở Mỹ, vào năm 2015 lúc đó là một
người già 85 tuổi, chắc sẽ nói về Syria như kể truyện cổ tích cho con
cháu nghe mà thôi. Và sẽ bắt đầu bằng: Ngày xa xưa gần một thế kỷ, ông
cố của ta đã tới đây….
Phải chăng, chúng ta sống trong thời đại của tỵ nạn và tuổi của lưu vong.(**)
Tôi nhìn hai con ếch mang nhãn Phi Châu với màu da vàng nhợt nhạt, nhớ
đến con cá Xiêm, bất giác nghĩ đến phận mình, phận của bao nhiêu con
người nữa, khác chi như cá, như ếch, như bông hoa lục bình trôi từ sông
nước quê nhà tạt vào một xứ sở xa xăm.
Trần Mộng Tú
Tháng 9/16/2015
Tháng 9/16/2015
No comments:
Post a Comment